Ninh tần Kim thị 寧嬪金氏 | |
---|---|
Thông tin chung | |
Sinh | 1669 |
Mất | 1735 |
An táng | Ninh Tần mộ |
Phối ngẫu | Triều Tiên Túc Tông |
Tước hiệu | [Thục nghi; 淑儀] [Chiêu nghi; 昭儀] [Quý nhân; 貴人] [Thứ nhân; 庶人] [Quý nhân; 貴人] (phục vị) [Ninh tần; 寧嬪] |
Thân phụ | Kim Xương Quốc |
Thân mẫu | Toàn Châu Lý thị |
Ninh tần Kim thị (寧嬪金氏, 1669 - 1735) là một hậu cung tần ngự của Triều Tiên Túc Tông thuộc nhà Triều Tiên.
Bà bổn quán ở An Đông, thuộc gia tộc An Đông Kim thị (安東金氏). Con gái của Kim Xương Quốc (金昌國) và Phu nhân Toàn Châu Lý thị (全州李氏), ngoài ra bà còn có một người thúc tổ phụ là Lãnh nghị chính Kim Thọ Hằng (金壽恒; 김수항). Năm 1686, Túc Tông năm thứ 12, bà tham gia đợt Giản trạch và nhận mệnh nhập cung, cùng năm sơ phong Tòng nhị phẩm Thục nghi (숙의; 淑儀) ở tuổi thứ 18, được ban tặng 150 tấm vải. Sau nhân dịp lễ mừng thọ sáu mươi tuổi của Từ Ý Đại vương Đại phi (tức Trang Liệt Vương hậu Triệu thị), Thục nghi Kim thị được tấn phong Chính nhị phẩm Chiêu nghi (소의; 昭儀), ngày 5 tháng 11 cùng năm, phong Tòng nhất phẩm Quý nhân (귀인; 貴人), trở thành người có phẩm vị cao nhất trong hàng tần ngự khi ấy. Tuy hành trạng thăng vị cực kỳ nhanh chóng, nhưng Kim quý nhân từ khi vào cung đến tận khi qua đời lại hoàn toàn vô sủng, Thực lục còn ghi rõ là “Nhi diệc vô sủng” (而亦無寵), trái ngược với vị Thượng cung Trương thị khi đó (không lâu sau thăng Tòng tứ phẩm Thục viên) cực kỳ được biệt đãi. Năm Túc Tông thứ 15 (1688), tháng 2, chính trường diễn ra “Kỷ Tỵ hoán cục” (己巳換局; 기사환국), Túc Tông bãi miễn và ban chết thúc tổ phụ của Kim quý nhân là Lãnh nghị chính Kim Thọ Hằng cùng trục xuất thúc phụ của Vương phi Mẫn thị là Tả nghị chính Mẫn Đỉnh Trọng, thay thế quan viên Tây nhân bằng quan viên Nam nhân. Ngoài ra, sau đó nhà vua cũng chỉ trích Kim quý nhân, hạch tội Kim thị thông đồng với thúc tổ phụ là cố lãnh nghị chính Kim Thọ Hằng tiết lộ bí mật trong cung[1]. Xuất thân từ một gia đình có danh vọng trong đảng Tây nhân, Kim Quý nhân luôn bị quy là cùng phe chính trị với Mẫn vương phi, cho nên bà cũng bị Túc Tông chán ghét, bị đưa vào tầm ngắm và nhất quyết phải bị trừ bỏ khỏi cung đình. Thế là sau 1 ngày hạch tội Mẫn vương phi cùng Kim Quý nhân, ngày 22 tháng 4 năm 1689, Túc Tông thu hồi phong hiệu, giáo chỉ của Kim thị và đuổi về nhà mẹ, trở thành thứ nhân. Đến ngày 4 tháng 5 cùng năm, Vương phi Mẫn thị cũng chính thức bị phế, ngôi trung điện sau đó thuộc về Hy tần Trương thị.
Năm 1694, Túc Tông năm thứ 20, Vương phi Trương thị bị giáng xuống lại chức Hy tần, Phế phi Mẫn thị được hồi cung và phục vị, thứ nhân Kim thị cũng được hồi cung theo. Sau này khi Thôi Thục tần sinh hạ vương tử Diên Nhưng quân, tức vua Anh Tổ, vương phi Mẫn thị bèn đưa vương tử cho Kim Quý nhân nuôi dưỡng. Năm 1700, Túc Tông năm thứ 26, tháng 4, trung điện Mẫn thị dần sinh bệnh, dù được chăm sóc kĩ lưỡng nhưng cũng không có biến chuyển. Theo ghi nhận của Hoàng Dận Tích, trung điện Mẫn thị trong giây phút cuối còn xin gặp Túc Tông lần cuối, đề nghị nhà vua đưa Kim quý nhân làm kế phi sau khi mình mất, khuyên nhủ rằng:「”Khôn vị sắp tới sẽ hư khuyết, xin đức ngài lấy Quý nhân Kim thị lên thay. Các đức hậu đời trước như Hiển Đức, An Thuận, Trinh Hiển cùng Chương Kính, tuy từ hậu cung mà tiến vị phù chính, nhưng đều xuất thân con cháu y quan vọng tộc, Kim Quý nhân cũng giống như vậy, không như cái phường Hi tần!”」[2][3]. Đến ngày 14 tháng 8 năm Túc Tông thứ 27, Vương phi Mẫn thị qua đời, thọ 35 tuổi, thụy là “Nhân Hiển Vương hậu”.
Tháng 9 cùng năm, Thục tần Thôi thị đến trước mặt Túc Tông, tố giác Hy tần Trương thị dùng thuật vu cổ nguyền rủa Nhân Hiển Vương hậu quá cố, triều đình bước vào một trận phong ba, kết quả là ngày 8 tháng 10, Túc Tông quyết tâm giữ con thí mẹ, ban thuốc độc xử tử Hy tần, nhưng không phế làm thứ nhân mà giữ lại danh hiệu Hy tần, mục đích để bảo toàn địa vị cho thế tử Lý Quân. Trước một ngày xử quyết, Túc Tông cũng hạ lệnh 「“Từ nay không được để tần ngự thăng làm hậu phi”」[4] khiến thế lực ủng hộ Kim Quý nhân lẫn Thôi Thục tần đều triệt để tiêu tan. Sang năm sau, tức Túc Tông năm thứ 28 (1702), Túc Tông nghênh thú Khánh Châu Kim thị nhập cung làm kế phi (tức Nhân Nguyên Vương hậu), nhân dịp đại hôn, vua đại phong chúng tần ngư, bà được tấn phong lên Chính nhất phẩm Tần, vị hiệu Ninh tần (영빈; 寧嬪).
Năm 1720, Túc Tông băng hà, theo lệ bà trở về tư gia và sống hết quãng đời còn lại, các vua Cảnh Tông và Anh Tổ sau này lên ngôi cũng khá tử tế và kính trọng bà. Do Anh Tổ từng được bà nuôi dưỡng một thời gian nên ông đặc biệt quý bà, thậm chí còn gọi bà là mẹ. Năm 1735, Anh Tổ năm thứ 11, bà qua đời, thọ 67 tuổi, vua Anh Tổ sau đó tặng bà cung hiệu “Nhân Thọ cung” (仁壽宮; 인수궁), đồng thời cũng là tên nơi thờ cúng bà. Năm 1753, Anh Tổ năm thứ 29, vua lệnh cho con gái mình là Hòa Nhu Ông chúa phải phụng tự bà với tư cách là cháu gái.
Thân gia An Đông Kim thị (安東 金氏)
Hoàng tộc Toàn Châu Lý thị (全州 李氏)