Triều Tiên Túc Tông 朝鲜肃宗 | |||
---|---|---|---|
Vua Triều Tiên | |||
Quốc Vương Triều Tiên | |||
Trị vì | 17 tháng 9 năm 1674 – 12 tháng 7 năm 1720 45 năm, 299 ngày | ||
Tiền nhiệm | Triều Tiên Hiển Tông | ||
Kế nhiệm | Triều Tiên Cảnh Tông | ||
Thông tin chung | |||
Sinh | Xương Đức cung, Hàn Quốc | 7 tháng 10, 1661||
Mất | 12 tháng 7, 1720 Khánh Đức cung, Hàn Quốc | (58 tuổi)||
An táng | Minh lăng | ||
Phối ngẫu | Nhân Kính Vương hậu Nhân Hiển Vương hậu Nhân Nguyên Vương hậu Ngọc Sơn Phủ Đại tần Hòa Kính Thục tần | ||
Hậu duệ |
| ||
Triều đại | Nhà Triều Tiên | ||
Thân phụ | Triều Tiên Hiển Tông | ||
Thân mẫu | Minh Thánh Vương hậu |
Triều Tiên Túc Tông | |
Hangul | 숙종 |
---|---|
Hanja | 肅宗 |
Romaja quốc ngữ | Sukjong |
McCune–Reischauer | Sukchong |
Tên khai sinh | |
Hangul | 이순 |
Hanja | 李焞 |
Romaja quốc ngữ | I Sun |
McCune–Reischauer | Yi Sun |
Triều Tiên Túc Tông (chữ Hán: 朝鲜肃宗, Hangul: 조선 숙종; 7 tháng 10 năm 1661 – 8 tháng 6 năm 1720) là Quốc vương thứ 19 của nhà Triều Tiên. Trị vì từ năm 1674 đến khi qua đời vào năm 1720, tổng cộng gần 46 năm.
Túc Tông đại vương là một nhà chính trị tài giỏi, nhưng triều đại của ông không phải lúc nào cũng bình yên, suốt triều đại của ông có nhiều sự chuyển đổi quyền lực giữa các phe phái chính trị: phái Tây Nhân, phái Nam Nhân rồi đến phái Thiếu luận (Soron) và phái Lão luận (Noron).
Túc Tông nhiều lần cải tổ nội các chính phủ - gọi là Hoán cục, phái lãnh đạo nào bị thay thế sẽ bị tước quyền và phải chịu nhiều hình phạt. Tuy nhiên, những thay đổi của nội các chính phủ không ảnh hưởng nhiều đến dân chúng và thời gian ông trị vì được coi là một trong những thời gian thịnh vượng.
Túc Tông đại vương có tên húy là Lý Đôn (李焞), sinh vào ngày 15 tháng 8, năm 1661 tại Xương Đức cung. Ông là con trai duy nhất của Triều Tiên Hiển Tông và Minh Thánh Vương hậu Kim thị, người ở Thanh Phong.
Năm 1667, ông trở thành Vương thế tử khi mới vừa 6 tuổi. Năm 1671, cử hành gia lễ thành hôn với con gái của Kim Vạn Cơ (金萬基).
Năm 1674, ngày 18 tháng 8, Hiển Tông đại vương thăng hà ở Xương Đức cung. Ngày 23 tháng 8, Thế tử Lý Đôn được kế vị khi được 14 tuổi. Kim Vương phi được tôn Vương đại phi (王大妃), Thế tử tần Kim thị được tấn phong Vương phi.
Những năm đầu trong triều đại của Túc Tông, phái Nam Nhân và phái Tây Nhân tranh cãi về thời gian để tang cho Nhân Tuyên Vương hậu (仁宣王后), chánh thất của Triều Tiên Hiếu Tông, cũng tức là bà nội của Túc Tông. Phái Nam Nhân cho rằng thời gian để tang sẽ kéo dài một năm, trong khi phái Tây Nhân cho rằng Hiếu Tông đại vương không phải là con trai cả của Triều Tiên Nhân Tổ, nên thời gian để tang sẽ kéo dài 9 tháng. Hai phe cũng tranh cãi về vấn đề đối ngoại với nhà Thanh - được coi là quốc gia hiếu chiến, đe dọa đến an ninh quốc gia. Phái Nam Nhân muốn tập trung cho cuộc chiến chống lại nhà Thanh trong khi phái Tây Nhân muốn tập trung vào việc cải thiện kinh tế trong nước. Túc Tông lúc đầu đứng về phía phe Nam Nhân.
Năm 1680, Hứa Tích (許積), người lãnh đạo phái Nam Nhân bấy giờ, bị phe Tây Nhân buộc tội phản quốc, phái Nam Nhân mất quyền lực - sự kiện này được gọi là Canh Thân hoán cục (庚申換局). Phái Tây Nhân lên nắm quyền, sau nhiều mẫu thuẫn nội bộ, phái Tây Nhân lại bị chia thành 2 phe phái: Lão luận do Tống Thời Liệt lãnh đạo và Thiếu luận do Doãn Chửng (尹拯) lãnh đạo.
Năm 1680, Nhân Kính Vương hậu Kim thị do mắc bệnh đậu mùa mà qua đời khi vừa 19 tuổi, có 2 công chúa nhưng đều chết yểu. Năm sau, Túc Tông lập con gái của đại thần Mẫn Duy Trọng (閔維重) làm Kế phi, tức Nhân Hiển Vương hậu Mẫn thị ở Ly Hưng. Kết hôn 3 năm nhưng Vương phi Mẫn thị không có con, Túc Tông sủng ái một hậu cung là Trương Ngọc Trinh, phong cô ta làm Thục viên (淑媛) tòng tứ phẩm, rồi tiến phong Chiêu nghi (昭儀) chính nhị phẩm, cấp thứ 2 trong Nội mệnh phụ của Triều Tiên.
Năm 1688, Trương Chiêu nghi sinh hạ 1 Vương tử, nhà vua liền phong Chiêu nghi lên chức Hy tần (禧嬪) chính nhất phẩm và muốn phong Vương tử lên chức Vương thế tử. Phái Tây Nhân phản đối việc này trong khi phái Nam Nhân lại ủng hộ Trương Hy tần. Nhà vua tức giận với phe chống đối, nhiều người trong phái Tây Nhân bị xử phạt và bị loại ra khỏi nội các điều hành, phái Nam Nhân lại lên nắm quyền. Sự kiện này gọi là Kỷ Tị hoán cục (己巳換局). Túc Tông ra chỉ phế bỏ Vương phi Mẫn thị - người được phái Tây Nhân ủng hộ, và phong Trương Hy tần lên làm Vương phi kế vị.
Năm 1694, phái Nam Nhân lập một kế hoạch để tiếp tục thanh trừng phái Tây Nhân, cáo buộc họ âm mưu phục vị cho Phế phi Mẫn thị đã bị phế truất. Lúc này, Túc Tông đã bắt đầu lo lắng về sự lớn mạnh và lộng quyền của phái Nam Nhân nên tìm cách bảo vệ phái Tây Nhân để giữ thế cân bằng chính trị, cũng trong thời gian này nhà vua sủng ái Thôi Thục viên - người ủng hộ Phế phi Mẫn thị và phái Lão luận.
Tức giận với việc làm của phái Nam Nhân khi muốn thanh lọc những người Tây Nhân, Túc Tông quay sang ủng hộ phái Tây Nhân và loại phái Nam Nhân ra khỏi Nội các. Phái Nam Nhân không bao giờ hồi phục lại được sau sự kiện này, còn được gọi là Giáp tuất hoán cục (甲戌換局). Túc Tông ra chỉ giáng Vương phi Trương thị về chức Hy tần, phục vị cho Phế phi Mẫn thị trở lại ngôi vị Trung điện. Năm 1701, Vương phi Mẫn thị đột ngột qua đời, Túc Tông nghi ngờ Trương Hy tần âm mưu hạ sát Vương phi nên ra lệnh ban chết vào năm đó.
Phái Thiếu luận ủng hộ Thế tử - con của Trương Hy Tần, trong khi phái Lão luận lại ủng hộ Diên Nhưng quân - con của Thôi Thục tần. Họ lo lắng nếu sau này vương vị rơi vào tay Thế tử con của Trương Hy tần thì hẳn sẽ trả thù cho mẹ, gây bất lợi cho bản thân phái Lão Luận. Bởi thế, họ ra sức đưa Thôi Thục tần lên làm Vương phi.
Năm 1702, Túc Tông đã đáp lại bằng việc bất ngờ tấn phong tiểu thư Kim thị, con gái của Kim Trụ Thần (金柱臣) người ở ở Khánh Châu, làm Vương phi. Đồng thời, Túc Tông ra chỉ về sau các Quốc vương Triều Tiên không được lập các Hậu cung thành Vương phi, nhằm ngăn chặn âm mưu đoạt ngôi Trung điện của các Hậu cung.
Năm 1712, vua Túc Tông đàm phán với nhà Thanh để xác định lại ranh giới giữa 2 nước tại sông Áp Lục và sông Đồ Môn. Đầu năm 1718, Túc Tông lâm bệnh, ông ban chỉ cho phép Vương thế tử Lý Quân thay mình xử lý các vấn đề chính sự của đất nước.
Năm 1720, sau một thời gian dài nằm liệt giường ông qua đời, hưởng thọ 60 tuổi, kết thúc 46 năm trị vì đất nước. Do Vương thế tử Lý Quân từ nhỏ đã được phát hiện bệnh vô sinh do biến chứng của quai bị nên để tránh cuộc tranh ngai vị sau khi mình qua đời, vua Túc Tông đã lập di huấn truyền ngai cho Vương thế tử Lý Quân, đồng thời có nguồn cũng nêu nếu Lý Quân không hạ sinh Vương tử thì vương vị sau khi khi Lý Quân qua đời sẽ truyền lại cho Vương đệ Lý Khâm (sau này chính là Triều Tiên Anh Tổ), nhưng không có người ghi chép lại để làm bằng chứng. Điều này dẫn tới một cuộc thanh trừng bốn nhà lãnh đạo phái Lão luận năm 1721, sau đó là tám người vào năm 1722.
Túc Tông đại vương được chôn cất tại Minh Lăng (Myeongnyeung), nay thuộc thành phố Cao Dương (Goyang), tỉnh Kinh Kì (Gyeonggi).
Chỉnh sửa theo nguồn từ http://ko.wikipedia.org/wiki/%EC%A1%B0%EC%84%A0_%EC%88%99%EC%A2%85
Tổ tiên của Triều Tiên Túc Tông | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|