Onotoa

Onotoa là một đảo san hô vòng và một quận của Kiribati. Đảo này thuộc quần đảo Gilbert trong Thái Bình Dương, nằm cách Tamana 65 km (40 mi), và là đảo nhỏ nhất của Gilberts. Dân số của Onotoa trong cuộc điều tra năm 2010 là 1,519 người.[1]

Đảo san hô vòng này có cấu trúc tương tự các đảo khác trong quần đảo Gilbert với một đường liên tục các tiểu đảo và hòn đảo nằm về phía đông. Bờ phía tây bao gồm các rặng san hô ngầm bao quanh bởi các đầm phá.[1]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Onotoa là một đảo san hô vòng thấp với diện tích 15,62 kilômét vuông (6,03 dặm vuông Anh). Có tất cả bảy ngôi làng ở Tabuarorae, một tiểu đảo nằm về cực nam của hòn đảo kế tiếp là các tiểu đảo Aiaki, Otoae, Temao, Buariki, Tanaeang và Tekawa nằm đầu bắc của đảo. Các dân làng cư ngụ dọc theo đầm phá dọc theo chiều dài đảo. Các cụm tiểu đảo Otoae và Aiaki hiện tại có thể tiếp cận dễ dàng nhờ vào các đường đắp cao được xây dựng từ Temao đến Aiaki. Tabuarorae vẫn không được kết nối với phần còn lại của đảo.[1]

Các cơ sở hạ tầng trải dài khắp đảo, với sân bay nằm gần ngôi làng đầu phía bắc Tekawa, bến tàu và cầu tàu ở tiểu đảo phía nam Tabuarorae, và Trường cấp hai nằm giữa Otowae và Aiaki, và văn phòng Hội đồng ở giữa Temao và Buariki.[1]

Các vấn đề môi trường

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc xây dựng đường đắp cao cũng đã gây ra sự giảm dòng nước đáng kể đi vào đầm phá dẫn tới lượng oxy trong đầm bị hạ thấp, hậu quả là làm giảm chất lượng nước.[2] Sự xói mòn và bồi đắp đang xảy ra dọc theo đường bờ biển được xác định có liên quan tới việc khai thác mỏ quá mức, việc lấn biển và xây dựng đường đắp cao được cho là dẫn tới sự thay đổi dòng chảy ven bờ.[2]

Truyền thuyết và thần thoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Cái tên Onotoa có nghĩa là 'sáu người khổng lồ'. Truyền thuyết kể rằng một người phụ nữ lưng gù đến từ Tarawa, sống ở ngôi làng Nuatabu, có sau người con trai đã trêu chọc sự khiếm khuyết cơ thể của bà. Bà đã bỏ đi đến Onotoa. Các người con trai đi theo bà và xây dựng nhà cho bà bằng việc chất đống san hô - phần còn lại của các công trình đó là các hòn đảo có thể thấy ngày nay.[2][Note 1]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1826 Thuyền trưởng Clark của tùa đánh bắt cá voi Anh quốc John Palmer là người châu Âu đầu tiên nhìn thấy Onotoa, theo sau là các tàu của người Mỹ và Nhật Bản.[2]

Bưu điện Onotoa được mở vào năm 1912.[5]

  1. ^ Sir Arthur Grimble, cadet administrative officer in the Gilberts from 1914 and resident commissioner of the Gilbert and Ellice Islands colony from 1926, recorded the myths and oral traditions of the Kiribati people. He wrote the best-sellers A Pattern of Islands (London, John Murray 1952,[3] and Return to the Islands (1957), which was republished by Eland, London in 2011, ISBN 978-1-906011-45-1. He also wrote Tungaru Traditions: writings on the atoll culture of the Gilbert Islands, University of Hawaii Press, Honolulu, 1989, ISBN 0-8248-1217-4.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d “16. Onotoa” (PDF). Office of Te Beretitent - Republic of Kiribati Island Report Series. 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2015.
  2. ^ a b c d Dr Temakei Tebano & others (tháng 4 năm 2008). “Island/atoll climate change profiles - Onotoa Atoll”. Office of Te Beretitent - Republic of Kiribati Island Report Series (for KAP II (Phase 2). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2015.
  3. ^ Grimble, Arthur (1981). A Pattern of Islands. Penguin Travel Library. Penguin Books. ISBN 0-14-009517-9.
  4. ^ Grimble, Arthur (1989). Tungaru traditions: writings on the atoll culture of the Gilbert Islands. Penguin Travel Library. University of Hawaii Press. ISBN 978-0-8248-1217-1.
  5. ^ Premier Postal History. “Post Office List”. Premier Postal Auctions. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2013.



Bản mẫu:Kiribati-geo-stub

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cà phê rang đậm có chứa nhiều Caffeine hơn cà phê rang nhạt?
Cà phê rang đậm có chứa nhiều Caffeine hơn cà phê rang nhạt?
Nhiều người cho rằng cà phê rang đậm sẽ mạnh hơn và chứa nhiều Caffeine hơn so với cà phê rang nhạt.
Ma Pháp Hạch Kích - 核撃魔法 Tensei Shitara Slime datta ken
Ma Pháp Hạch Kích - 核撃魔法 Tensei Shitara Slime datta ken
Ma Pháp Hạch Kích được phát động bằng cách sử dụng Hắc Viêm Hạch [Abyss Core], một ngọn nghiệp hỏa địa ngục được cho là không thể kiểm soát
Cơ bản về nến và cách đọc biểu đồ nến Nhật trong chứng khoán
Cơ bản về nến và cách đọc biểu đồ nến Nhật trong chứng khoán
Nền tản cơ bản của một nhà đầu tư thực thụ bắt nguồn từ việc đọc hiểu nến và biểu đồ giá trong chứng khoán
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Lời Thì Thầm Của Trái Tim - Khúc ca dịu êm của tuổi trẻ
Trong những ngày ngoài kia là trận chiến căng thẳng, trong lòng là những trận chiến của lắng lo ngột ngạt