Pegvisomant (tên thương mại Somavert) là một thụ thể hormone tăng trưởng đối kháng sử dụng trong điều trị Bệnh to cực.[1] Thuốc chủ yếu được sử dụng nếu khối u tuyến yên gây ra bệnh to cực không thể kiểm soát được bằng phẫu thuật hoặc xạ trị, và việc sử dụng các chất tương tự somatostatin không thành công, nhưng cũng hiệu quả như một đơn trị liệu.[2] Nó được phân phối dưới dạng bột được trộn với nước và tiêm dưới da.[3]
Pegvisomant được phát hiện tại Đại học Ohio năm 1987 bởi Giáo sư nổi tiếng John Kopchick và nghiên cứu sinh Wen Chen tại Viện Công nghệ sinh học Edison. Sau khi hoàn thành thử nghiệm lâm sàng, nó đã được chấp thuận để điều trị Bệnh to cực bởi FDA vào năm 2003 và tiếp thị bởi Pfizer.[4]
Pegvisomant là một protein chứa 191 dư lượng amino acid mà một số polyme polyethylen glycol đã liên kết cộng hóa trị để làm chậm quá trình thanh thải trong máu.[3] Protein là một phiên bản sửa đổi của hormone tăng trưởng của con người được thiết kế để liên kết và ngăn chặn thụ thể hormone tăng trưởng. Nó được sản xuất bằng cách sử dụng vi khuẩn E.coli biến đổi gen.[3]
Pegvisomant ngăn chặn hoạt động của hormone tăng trưởng tại thụ thể hoóc môn tăng trưởng để giảm sản xuất IGF-1.[5][6] IGF-1 chịu trách nhiệm cho hầu hết các triệu chứng của bệnh to cực và việc bình thường hóa mức độ của nó có thể kiểm soát các triệu chứng.[7]
Các nghiên cứu điều trị dài hạn với pegvisomant là đơn trị liệu đã cho thấy nó an toàn,[2] và cho đến nay, đây là phương pháp điều trị hiệu quả nhất đối với cả hai loại đơn trị liệu và kết hợp với các chất tương tự somatostatin.[8]
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra tiềm năng của việc sử dụng pegvisomant như một phương pháp điều trị chống khối u đối với một số loại ung thư, kết hợp với các phương pháp điều trị khác.[11][12]
^Schreiber, I; Buchfelder, M; Droste, M; Forssmann, K; Mann, K; Saller, B; Strasburger, C J (2007). “Treatment of acromegaly with the GH receptor antagonist pegvisomant in clinical practice: Safety and efficacy evaluation from the German Pegvisomant Observational Study”. European Journal of Endocrinology. 156 (1): 75–82. doi:10.1530/eje.1.02312. PMID17218728.
^[1]Lưu trữ 2016-11-22 tại Wayback Machine, Ohio University, inventors to receive up to $52 million from drug license transactions
^Kopchick, J. (2003). “Discovery and mechanism of action of pegvisomant”. European Journal of Endocrinology. 148: S21–5. doi:10.1530/eje.0.148s021. PMID12670297.
^Neggers, Sebastian J.C.M.M.; Muhammad, Ammar; Van Der Lely, Aart Jan (2015). “Pegvisomant Treatment in Acromegaly”. Neuroendocrinology. 103 (1): 59–65. doi:10.1159/000381644. PMID25792221.
^Feenstra, J; Van Aken, M. O.; De Herder, W. W.; Feelders, R. A.; Van Der Lely, A. J. (2006). “Drug-induced hepatitis in an acromegalic patient during combined treatment with pegvisomant and octreotide long-acting repeatable attributed to the use of pegvisomant”. European Journal of Endocrinology. 154 (6): 805–6. doi:10.1530/eje.1.02160. PMID16728538.
^Evans, Angharad; Jamieson, Stephen M.F.; Liu, Dong-Xu; Wilson, William R.; Perry, Jo K. (2016). “Growth hormone receptor antagonism suppresses tumour regrowth after radiotherapy in an endometrial cancer xenograft model”. Cancer Letters. 379 (1): 117–23. doi:10.1016/j.canlet.2016.05.031. PMID27241667.
^Divisova, Jana; Kuiatse, Isere; Lazard, Zawaunyka; Weiss, Heidi; Vreeland, Franzanne; Hadsell, Darryl L.; Schiff, Rachel; Osborne, C. Kent; Lee, Adrian V. (2006). “The growth hormone receptor antagonist pegvisomant blocks both mammary gland development and MCF-7 breast cancer xenograft growth”. Breast Cancer Research and Treatment. 98 (3): 315–27. doi:10.1007/s10549-006-9168-1. PMID16541323.
Erga Kenesis Di Raskreia (Kor. 에르가 케네시스 디 라스크레아) là Lãnh chúa hiện tại của Quý tộc. Cô ấy được biết đến nhiều hơn với danh hiệu Lord hơn là tên của cô ấy.
Rien (Từ điển, Bính âm: Lián), còn được gọi là biệt danh Fugen Jōtei (Từ điển, Nghĩa đen: Shangdi Samantabhadra), là một Sennin cấp Tensen, người từng là người cai trị thực sự của Kotaku, tổ tiên của Tensens, và là người lãnh đạo của Lord Tensen.