Phan Thúc Trực | |
---|---|
Tên húy | Dưỡng Hạo |
Tên hiệu | Hành Quý |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Dưỡng Hạo |
Ngày sinh | 1808 |
Nơi sinh | Nghệ An |
Rửa tội | |
Mất | |
Ngày mất | 1852 |
Nơi mất | Thanh Hóa |
An nghỉ | |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Phan Vũ |
Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
Nghề nghiệp | nhà sử học, nhà văn, nhà thơ, nhà địa lý |
Quốc tịch | nhà Nguyễn |
Tác phẩm | Quốc sử di biên |
Truy phong | |
Thụy hiệu | |
Tước hiệu | |
Tước vị | |
Chức vị | |
Thần vị | |
Nơi thờ tự | |
Phan Thúc Trực (chữ Hán: 潘叔直, 1808[1]-1852), hiệu là Hành Quý, Bồ Phong Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, là một Thám hoa triều Nguyễn. Ông cũng là một nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, nhà địa lý học trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên tên của ông là Dưỡng Hạo (養浩), sau mới đổi lại thành Thúc Trực[2]. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm 1808,mất ngày 13 tháng 10 năm Tự Đức thứ 5 (1852), là người ở làng Phú Ninh,tổng Vân Tụ, nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Dòng họ ông có 7 đời đăng khoa. Cha ông là Phan Vũ, là một Tú tài có tiếng hay chữ và đạo đức, nhưng nhà nghèo phải đi dạy học kiếm sống, được dân trong vùng gọi là thầy "Bồ", với hàm ý là thiên hạ có hai bồ chữ thì riêng ông đã học được một "bồ". Chịu ảnh hưởng của cha, Dưỡng Hạo dù hoàn cảnh gia đình khó khăn nên phải vừa học, vừa làm, nhưng từ thời trẻ nổi tiếng học giỏi.
Năm 16 tuổi, ông đỗ đầu xứ trong kỳ khảo hạch "tiến ích" của tỉnh, được mệnh danh là thần đồng. Năm 17 tuổi, ông thi đậu Tú tài khoa Ất Dậu (1825) tại trường thi Nghệ An.
Tuy nhiên, liên tiếp 10 khoa thi, gồm 5 chính khoa đời Minh Mệnh, 3 chính khoa và 2 ân khoa đời Thiệu Trị, ông vẫn chỉ đỗ Tú tài. Thầy dạy của ông ở Diễn Châu nhận xét: "Phan tử tài, Cử nhân bất túc, Tiến sĩ hựu dư" (nghĩa là "Tài năng như trò Phan, mặc dù không đỗ Cử nhân nhưng lại thừa sức đỗ Tiến sĩ").
Theo quy chế thời phong kiến, đậu Cử nhân mới được thi Hội ở Kinh đô, song vì ông đậu Tú tài 10 khoa liên tiếp nên vẫn được đặc cách đi thi. Khoa thi năm Đinh Mùi (1847), tức năm Thiệu Trị thứ 7, từ thi Hội đến thi Đình, văn sách của ông bài nào cũng được các quan giám khảo phê "ưu" hay phê "bình", không có bài nào bị phê "thứ". Vì vậy, ông đỗ thủ khoa kỳ thi Đình năm đó, trúng cách Thám hoa, nên còn được gọi là Đình nguyên Thám hoa. Ông là người đầu tiên ở Nghệ An đỗ thủ khoa kỳ thi Đình thời triều Nguyễn.[3].
Sau khi đỗ Thám hoa được 1 năm, năm Tự Đức nguyên niên, Phan Phúc Trực được bổ sung làm Hàn lâm viện trước tác, hàm Chánh lục phẩm; tiếp đó được bổ vào Tòa nội các (tức Tòa văn thư của nhà vua) rồi được thăng Tập hiền viện thị giảng, hàm Tòng ngũ phẩm Hàn lâm. Ông nhiều lần ứng chế nhiều bài thơ văn, được vua Tự Đức lần khen ngợi và tặng thưởng. Cũng nhờ đó mà ông được Tự Đức đặc cách phong làm Kinh diên khởi cư trú, một chức quan duy nhất luôn luôn gần gũi nhà vua, giúp vua giải quyết việc triều chính và được vua ban ấn tín có thể đi bất cứ nơi đâu trong cung cấm.
Năm Tự Đức thứ 4 (1851), ông vâng chiếu chỉ vua ra Bắc Thành sưu tầm những sách vở cũ. Qua năm sau (1852), sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, ông trở về kinh đô, nhưng khi đi đến Thanh Hóa thì lâm trọng bệnh, rồi tạ thế trên đường đi, hưởng thọ 44 tuổi.
Nghe tin ông mất, vua Tự Đức vô cùng thương tiếc cho một vị nhân thần có tài đức mà bất hạnh. Nhà vua phái Tổng đốc Nghệ An mang phẩm vật tới tang quyến truy điệu với bốn chữ "Học cao hạnh thuần" (nghĩa là "Học vấn đã cao thâm mà đức hạnh lại thuần hậu") và truy phong cho ông hàm Chánh ngũ phẩm.
Một vị túc nho ở trong huyện Yên Thành đã khóc ông với một đôi câu đối rất ai oán:
Đương thời, các văn nhân còn tập hợp các bài văn thơ nói về ông thành một tuyển tập đặt tên là "Thám hoa Phan Thúc Trực Cẩm hồi hạ tập"
Ông đã để lại cho hậu thế một nhiều tài liệu lịch sử, thơ văn và địa lý rất có giá trị như:
Cho đến ngày nay, cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm của ông vẫn được các viện nghiên cứu của Pháp, Trung Quốc, Hồng Kông... chú ý nghiên cứu. Tác phẩm Quốc Sử di biên cũng được đưa vào giảng dạy tại nhiều trường Đại học ở Hồng Kông, Trung Quốc.
Chính vì thế, sau khi ông mất, dân làng Vân Tụ đã cho dựng đền thờ và tôn phong cho ông là Thành hoàng của làng. Tên của ông được đặt cho một trường Trung học Phổ thông tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An cũng có một con đường mang tên ông.
Thuở còn thiếu niên, do gia đình nghèo, ông phải vừa học vừa làm. Một hôm đang gặt ngoài đồng thì nhà thờ họ Phan Thúc cháy, trống ngũ liên nổi lên, mọi người thì lo dập lửa, riêng ông thì ngồi làm thơ. Bài thơ đó như sau:
Bài thơ vịnh cảnh cháy nhà thờ họ nhưng cũng có ẩn ý tả cảnh vinh quy bái tổ của học trò thì đỗ. Nó còn toát lên khẩu khí một con người tài ba, nỗ lực làm nên sự nghiệp trong tương lai. Quả thực, dù gia cảnh khó khăn, thi cử lận đận, cuối cùng ông cũng đỗ đầu với danh hiệu Đình nguyên Thám hoa.
Thời ông dạy học ở làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Làng này có tục các cô gái vừa kéo vải vừa hát đối đáp với các chàng trai trong đêm. Đôi khi có cả những nhà nho gà cho các bên hát. Một hôm gặp ông đồ xứ Nghệ, các cô bèn ra một vế đối để thử tài:
Đây là một vế đối rất hóc hiểm. Nguyệt Viên là tên làng nhưng cũng có nghĩa là trăng tròn, trăng lại tròn vào hôm rằm tức mười lăm. Ông liền đối:
Về đầu đồi rất chỉnh, vì Vân Tụ là quê ông sánh với Nguyệt Viên, và còn có nghĩa là mây nhóm. Nhưng đến vế sau "Ai muốn lấy mười lăm quan chẵn" thì ông bế tắc, đành chữa thẹn: "Mười lăm quan đắt quá, không lấy nữa".
Từ ấy, ông tự thấy sở học mình còn kém, nên lại về quê tiếp tục học nữa. Nhờ đó về sau lừng danh Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực.
Phan Thúc Trực thi đỗ liên tiếp mười khoa thi, nhưng đều chỉ dừng ở bậc Tú tài. Mặc dù vậy, đỗ Tú tài 10 khoa liên tiếp như vậy là điều chưa xảy ra trong lịch sử khoa bảng. Vì thế văn thân huyện Yên Thành tặng ông đôi câu đối:
Tạm dịch
Ông còn được vua Thiệu Trị ban cho tấm biển có ba chữ đề "Khôi đa sĩ". Ba chữ này lấy trong sách Tam tự kinh "Đối đại đình, khôi đa sĩ", hàm ý nói ông vào chốn đại đình được đỗ đầu, áp đảo nhiều thân sĩ trong nước.