Thời Triệu Đà Diễn Châu nằm trong quận giao chỉ của nước Nam Việt.
Thời Nhà Đường Niên hiệu Vũ Đức, chia quận Nhật Nam thành Nam Đức châu, Lạo châu, Minh Châu và Hoan Châu. Năm Trinh Quán nguyên niên đổi Đức Châu lại làm Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ thì đổi làm Diễn Châu. Năm thứ 16 bỏ Diễn Châu hợp vào Châu Hoan.
Thời Nhà Lý năm Cảnh Hựu thứ ba (Bính Tí - 1036). Mùa hạ, tháng 4, Đặt hình dinh ở Châu Hoan, đổi tên châu ấy thành Nghệ An. Diễn Châu tách khỏi Nghệ An thì đứng riêng làm châu; Nghệ An lúc đó là vùng đất còn lại và tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
Thời Nhà Trần, năm Long Khánh thứ ba đổi Diễn Châu làm Diễn Châu lộ, chia Hoan Châu làm 4 lộ: Nhật Nam và Nghệ An nam, Nghệ An bắc, Nghệ An trung, cũng gọi là Nghệ An phủ. Năm Quang Thái thứ 10 đổi Nghệ An làm Lâm An trấn, Diễn Châu làm Vọng An trấn. Trong chiến tranh với Mông Cổ, vua Trần có ngâm câu thơ: Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ, Hoan Diễn kia còn tồn thập vạn binh. Ý chỉ vùng đất này có lực lượng dự bị hùng hậu, sẵn sàng huy động dùng cho việc đánh giặc.
Thời Nhà Hồ đổi Diễn Châu làm Linh Nguyên phủ, cùng với Thanh Hóa, Cửu Chân, Ái Châu gọi là tứ phủ.
Thời thuộc Minh, Diễn Châu và Nghệ An là 2 phủ riêng biệt
Thời Hậu Lê, phủ Diễn Châu thuộc Nghệ An thừa tuyên. Năm Hồng Đức thứ 21 đổi thừa tuyên Nghệ An thành xứ Nghệ, phủ Diễn Châu là một trong 8 phủ của Xứ Nghệ, quản lĩnh 2 huyện: Đông Thành (Yên Thành và Diễn Châu ngày nay) và Quỳnh Lưu.
Thời Nhà Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 12 (1831), trấn Nghệ An chia tách thành 2 tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, phủ Diễn Châu là một trong 4 phủ của tỉnh Nghệ An, gồm: Đông Thành, Yên Thành, Nghi Lộc và Quỳnh Lưu.
Năm 1919, chính quyền thực dân phong kiến bỏ cấp phủ: Huyện Đông Thành đổi thành phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Sau năm 1945, phủ Diễn Châu được gọi là huyện Diễn Châu, bao gồm 41 xã: Diễn An, Diễn Bích, Diễn Bình, Diễn Cát, Diễn Đoài, Diễn Đồng, Diễn Hải, Diễn Hạnh, Diễn Hoa, Diễn Hoàng, Diễn Hồng, Diễn Hùng, Diễn Kim, Diễn Kỷ, Diễn Lâm, Diễn Liên, Diễn Lộc, Diễn Lợi, Diễn Minh, Diễn Mỹ, Diễn Ngọc, Diễn Nguyên, Diễn Phong, Diễn Phú, Diễn Phúc, Diễn Quảng, Diễn Tân, Diễn Thái, Diễn Thắng, Diễn Thành, Diễn Tháp, Diễn Thịnh, Diễn Thọ, Diễn Thủy, Diễn Tiến, Diễn Trung, Diễn Trường, Diễn Vạn, Diễn Viên, Diễn Xuân, Diễn Yên.
Ngày 22 tháng 5 năm 1969, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 268-VN.[3] Theo đó:
Sáp nhập hai thôn Đồng Yên và Hoàng La thuộc xã Diễn Hoàng vào xã Diễn Trường
Sáp nhập thôn Hoàng Hà và xóm Sào Nam thuộc xã Diễn Hoàng vào xã Diễn Mỹ
Sáp nhập thôn Thuần Vỹ thuộc xã Diễn Tháp và thôn Yên Sở thuộc xã Diễn Đồng vào xã Diễn Liên
Sáp nhập thôn Thổ Hậu thuộc xã Diễn Quảng và xóm Phi Lộc thuộc xã Diễn Đồng vào xã Diễn Nguyên
Sáp nhập hai thôn Xuân Nho, Xuân Tình và xóm Làng Đó thuộc xã Diễn Lộc vào xã Diễn Thọ
Sáp nhập thôn Vạn Nam thuộc xã Diễn Vạn vào xã Diễn Bích
Sáp nhập thôn Thừa Sủng thuộc xã Diễn Hạnh vào xã Diễn Xuân
Sáp nhập thôn Hạnh Kiều thuộc xã Diễn Quảng vào xã Diễn Viên
Sáp nhập thôn Phúc Thiêm thuộc xã Diễn Phúc và thôn Phú Hậu thuộc xã Diễn Tân vào xã Diễn Cát
Sáp nhập thôn Xuân Viên thuộc xã Diễn Thắng vào xã Diễn Minh
Sáp nhập xóm Trại thuộc xã Diễn Thịnh vào xã Diễn Lộc
Sáp nhập xóm Lội và xóm Hậu Giáp thuộc xã Diễn Thịnh vào xã Diễn Tân
Sáp nhập thôn Yên Lãng thuộc xã Diễn Thành vào xã Diễn Ngọc
Sáp nhập xã Diễn Tháp vào xã Diễn Xuân
Sáp nhập hai xã Diễn Viên và Diễn Hạnh vào xã Diễn Hoa
Sáp nhập xã Diễn Bình vào xã Diễn Minh
Sáp nhập xã Diễn An vào xã Diễn Lộc
Sáp nhập xã Diễn Tân vào xã Diễn Phúc
Sáp nhập xã Diễn Thủy vào xã Diễn Ngọc
Sáp nhập xã Diễn Quảng vào xã Diễn Cát
Sáp nhập xã Diễn Hoàng vào xã Diễn Hùng
Sáp nhập xã Diễn Hồng vào xã Diễn Phong
Sáp nhập xã Diễn Kim vào xã Diễn Vạn
Sáp nhập xã Diễn Đồng vào xã Diễn Thái
Sáp nhập xã Diễn Lợi vào xã Diễn Thắng
Sáp nhập xã Diễn Tiến vào xã Diễn Thành.
Sau năm 1975, huyện Diễn Châu được chia lại thành 38 xã: Diễn An, Diễn Bích, Diễn Bình, Diễn Cát, Diễn Đoài, Diễn Đồng, Diễn Hải, Diễn Hạnh, Diễn Hoa, Diễn Hoàng, Diễn Hồng, Diễn Hùng, Diễn Kim, Diễn Kỷ, Diễn Lâm, Diễn Liên, Diễn Lộc, Diễn Lợi, Diễn Minh, Diễn Mỹ, Diễn Ngọc, Diễn Nguyên, Diễn Phong, Diễn Phú, Diễn Phúc, Diễn Quảng, Diễn Tân, Diễn Thái, Diễn Thành, Diễn Tháp, Diễn Thắng, Diễn Thịnh, Diễn Thọ, Diễn Trường, Diễn Trung, Diễn Vạn, Diễn Xuân, Diễn Yên.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, thành lập thị trấn Diễn Châu, thị trấn huyện lỵ huyện Diễn Châu trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của các xã Diễn Phúc và Diễn Thành.[4]
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã Diễn Bình, Diễn Minh, Diễn Thắng thành xã Minh Châu.[5]
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết số 1243/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2023–2025 (nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 12 năm 2024)[6]:
Sáp nhập xã Diễn Thành và thị trấn Diễn Châu thành thị trấn Diễn Thành
Sáp nhập hai xã Diễn Xuân và Diễn Tháp thành xã Xuân Tháp
Sáp nhập hai xã Diễn Ngọc và Diễn Bích thành xã Ngọc Bích
Sáp nhập hai xã Diễn Hùng và Diễn Hải thành xã Hùng Hải
Sáp nhập hai xã Diễn Hạnh và Diễn Quảng thành xã Hạnh Quảng.
Từ đó, huyện Diễn Châu có 1 thị trấn và 31 xã như hiện nay.
Lễ hội đền thờ An Dương Vương (Nghệ An) Đền Cuông: Địa điểm: Xã Diễn An, km 30 trên đường Quốc Lộ 1A Vinh - Hà Nội. Lễ hội diễn ra trong vòng ba ngày 13-14-15 tháng 2 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ vị Vua đã có công sáng lập nên quốc gia Âu Lạc.
Phần lễ: Chiều 14 tháng 2 âm lịch: Lễ yết cáo; đêm 14 tháng 2 âm lịch: Lễ yên vị; sáng 15 tháng 2 âm lịch: rước kiệu từ đình Xuân Ái, Diễn An và nhà thờ họ Cao, Diễn Thọ ra đền Cuông.
Phần hội: Diễn ra từ ngày 13 tháng 2 đến hết ngày 15 tháng 2 âm lịch gồm các trò chơi dân gian như chọi gà, cờ người, đánh vật, đánh đu... Cùng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như hát chầu văn, thi Tiếng hát Thanh niên, Thanh niên thanh lịch, bóng bàn, kéo co, leo núi...
Diễn Châu là vùng đất có rất nhiều lò vật và nhiều đô vật có tên tuổi. Hầu như ở xã nào cũng có làng có lò vật. Nho Lâm, Xuân Nho có lò vật lớn, là nơi có những lò lớn như Hậu Luật, Trung Phường, Vân Tập, Hạnh Kiều, Thư Phủ, Bút Trận, Vạn Phần, Kim Lũy, Đông Câu, Hữu Bằng, Lý Nhân, Thanh Bích, Kỳ Ngãi,...đều có lò vật.
Truyện ông Mân Nhụy: Truyện cười của ông Mân Nhụy mang sắc thái châm biếm nhẹ nhàng, sâu sắc. Tiếng cười của ông luôn hướng mũi dùi vào tầng lớp quan tham vô lại và đứng về phía nhân dân lao động.
Truyện ông Cố Bợ: Ông Cố Bợ là một nhân vật thần thoại. Ông Cố Bợ tượng trưng cho thần Lửa. Tương truyền, khi màn đêm buông xuống, ông cố Bợ đi về hướng Đông, lật ngửa cái nón xuống biển làm thuyền, dùng cành cây làm mái chèo, chèo tới chỗ mặt trời mọc và lấy lửa về cho mọi người. Ông còn trừng trị những người bẩn tính, hà tiện bằng việc dùng trò chơi khăm họ với lửa.
Truyện ông Chẹm: Ông tên thật là Nguyễn Ngọc Thư. Cả xã Nho Lâm gọi ông là ông Chẹm. Ông Chẹm có sức khỏe hơn người. Những mẩu chuyện lưu truyền về ông thường gắn với các hành động tham gia các phong trào yêu nước của ông. Ông sống vào nửa sau thế kỷ XIX, đã từng tham gia phong trào Giáp Tuất (1874), Phong trào Cần Vương (1885).
Truyện ông Chắt Vạn: Ông Chắt Vạn người làng Trung Phường, nay thuộc xã Diễn Minh. Ông là người khí khái, thấy việc nghĩa thì làm, vừa có gan vừa có trí làm bao kẻ quyền thế sợ xanh mặt. Những chuyện kể về ông không ít. Có lần, ông đã đối diện với Chánh tổng người làng Sơn (tức làng Trường Sơn nay là xã Sơn Thành huyện Yên Thành) chuyên đi hiếp đáp dân lành, làm cho nó phải van lạy xin chừa.
Ông cố Truyền: tên thật là Phạm Luân, 1922 - 2017, người làng Đồng Tâm, Diễn Thịnh. Tương truyền ông ăn được cả rổ Khoai, nồi cơm lớn. Cày cấy cả ngày lẫn đêm, khai hoang cả vùng đất rộng lớn. Khỏe nổi tiếng cả vùng Nam Diễn Châu. Là gia đình Ngũ Đại Đồng Đường hiếm có.
Diễn Châu là một huyện có rất nhiều làng nghề truyền thống. Một số làng nghề nổi tiếng như nghề đúc đồng ở Xóm Yên Thịnh, làng Cồn Cát (Diễn Tháp), nghề rèn ở Nho Lâm, Nước mắm Vạn Phần, nghề hát tuồng ở Lý Nhân,... Các làng nghề đóng cối xay, bện võng, đan bị, dệt vải, đan rổ rá, mộc, làm nón...
Cồn Cát (Diễn Tháp): Đúc đồng, gang đồ gia dụng và làm chiêng cồng. đồ thờ cúng.
Trạng Nguyên: Hồ Hưng Dật Thái Thú Diễn Châu Thủy Tổ Họ Hồ Chính Thống Ở Việt Nam. Theo Sách Hồ Tộc Thế Phả, Ông Được Xem Là Thủy Tổ ,Tổ Tiên Của Hồ Quý Ly , Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh , Những Nhân Vật Làm Rạng Danh Dòng Họ Hồ Diễn Châu Trong Lịch Sử Việt Nam , Người Diễn Châu Làm Rạng Danh Đất Nước Việt Nam.
Trạng nguyên: Trại Trạng nguyên Bạch Liêu, đỗ trạng nguyên cùng khoa với Kinh Trạng nguyên Trần Cố khoa Bính Dần đời vua Trần Thái Tông, năm 1236. Ông quê ở làng Nguyễn Xá, phủ Diễn Châu, nay thuộc xã Diễn Lộc, huyện Diễn Châu.
Nguyên Anh hùng LLVT, cán bộ lão thành: tướng đầu tiên của quân đội việt nam,Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I,Phụ TráchĐảngcộng sảnĐông DươngNguyễn Vỹ.
Diễn Châu được ví là viên ngọc của du lịch Nghệ An. Trong số 8 cảnh đẹp của "Đông Yên Nhị Châu" thì có 6 cảnh đẹp thuộc về Diễn Châu. Đó là Dạ Sơn linh tích (Dấu thiêng núi Mộ Dạ), Cao Xá long cương (Gò rồng Cao Xá), Bùng Giang thu nguyệt (Trăng thu trên sông Bùng), Bích Hải quy phàm (Cánh buồm về cửa Bích), Thiên uy thiết cảng (Kênh sắt oai trời), Diễn Thành thạch bảo (Thành đá phủ Diễn Châu).
Đền Cuông: Vào năm 208 trước công nguyên, do đánh thua Triệu Đà, Thục An Dương Vương đã cùng công chúa Mỵ Châu chạy nạn. Đến bãi biển cửa Hiền, xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, thần Kim Quy hiện lên và bảo "giặc ở sau lưng nhà ngươi" ngài đã rút gươm giết chết con gái Mỵ Châu và tuẫn tiết dưới chân núi Mộ Dạ. Nhân dân đã lập đền thờ ngài ở đó. Thế núi Mộ Dạ đứng xa xa giống như một con Công khổng lồ đang múa, hai cánh giang rộng tới các dãy núi khác, đầu công chính là nơi tọa lạc của đền thờ An Dương Vương, gọi là đền Công, nhân dân gọi đền này là đền Cuông, Cuông là tiếng địa phương. Vì vậy, Đền Cuông còn được gọi là đền Công. Đền Cuông được kiến trúc theo hình chữ tam, có 3 tòa Thượng, Trung, Hạ, xung quanh có nhiều cây cổ thụ um tùm xanh tốt, trông rất cổ kính và linh thiêng. Đền nằm bên quốc lộ số 1A thuộc xã Diễn An, cách thành phố Vinh khoảng 30 km. Đền cuông hiện vẫn còn giếng nước như truyền thuyết, nước rất trong và sạch.
Đền Cuông
Cửa Hiền: Phía bắc chân núi Mộ Dạ là bãi biển cửa Hiền. Tại đây có miếu nàng Mỵ Châu. Bãi biển cửa Hiền là một bãi biển tương đối hoang sơ, có rất nhiều hòn đá nhô lên giống như con cá biển gọi là bãi đá Ngư Hải, trong đó có một phiến đá rất cao, to và bằng phẳng lưu truyền là bàn cờ tiên, dân địa phương gọi là hòn Đá Bàn. Đây là khu vực duy nhất của Nghệ An không có gió Tây Nam nóng bỏng vào mùa hè.
Cao Xá Long Cương: Thực chất đây là một bãi sò lớn thuộc địa phận hai làng Hương Cái và Tiên Lý, kéo dài từ Nam chân núi Mộ Dạ đến sông Ông Phùng. Sóng biển đánh vỏ sò lâu ngày chất thành đống, tạo thành những cồn bãi cao, sâu đến 4-5 thước. Gò rồng Long Cương chạy dài, cao lên ở phía gần ven biển, chiều dài chiếm khoảng 2/3 huyện Diễn Châu.
Biển Diễn Thành: là bãi biển nằm gần ngã ba Diễn Châu và dọc trục đường Quốc lộ 1. Đây là một bãi biển rộng, cát thoai thoải, nước trong xanh, phía trên là những dãy phi lao ngút ngàn. Bãi biển Diễn Thành cách đền Cuông cửa Hiền khoảng 5 km về phía Bắc. Tại đây có nhà thờ họ Cao Bá thuộc xóm 4, xã Diễn Thành với những truyền thuyết của ông tổ đi mây, cưỡi gió cứu vớt người đi biển, lãnh đạo nhân dân quanh vùng chống bọn xâm lược Trung Quốc.
Hồ Xuân Dương: hay Đập Xuân Dương (Đập Bara theo tiếng Pháp sau khi pháp xây dựng đập ngăn nước), là một hồ nước rất lớn được ngăn bởi dãy núi là Rú Dẻ và Rú Chạch (Bạch Y) và Rú Ba Chạng, thuộc xã Diễn Phú. Đây là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho các xã ở phía nam Diễn Châu. Hồ xuất phát từ xã Nghi Văn huyện Nghi Lộc. Đập chắn và hệ thống đóng mở nước được xây dựng từ thời Pháp còn có tên gọi là Cột nhà lầu. Cửa đập được xây dựng kiên cố bằng đá xanh nằm giữa 2 ngọn núi thuộc dãy núi Rú chạch và Rú Ba Chạng. Thời kháng chiến chống Mỹ khu vực này chịu không ít bom đạn. Mỹ quyết tâm phá đập chắn nhưng không được vì đập đã được 2 ngọn núi chở che.Dấu tích còn sót lại trên núi là rất nhiều hố bom. Xung quanh hồ là nhiều rừng thông và cây cổ thụ đã được nuôi giữ nhiều năm, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, có nhiều động và khe núi quyến rũ làm rung động lòng người. Khung cảnh nơi đây rất giống Đà Lạt.
Lèn Hai Vai: Lèn Hai Vai thuộc địa phận xã Minh Châu, còn gọi là Lưỡng Kiên Sơn, vì đứng xa xa trông giống như một chàng dũng sĩ hiên ngang. Chúa Trịnh Tĩnh Vương gọi núi này là Di Lặc Sơn. Trong lèn có nhiều hang động như: hang Thần Đồng, hang Cố Nguyên, hang Dơi, hang Khòm, hang Chuồn Chuồn, hang Cá Chép... Ngày nay, lèn Hai Vai vẫn còn giữ được nét cổ kính và gắn với nhiều sự tích. Có tích nói rằng quan Khánh Lý Hầu Nguyễn Trung Ý, người Kẻ Dặm, làm quan Nhà Lê, sau theo Tây Sơn. Khi Gia Long lên ngôi, ông không phục, về Lèn Hai Vai dạy học trong một hang đá. Nhiều học trò của ông thành tài, sau này hang đó gọi tên là hang Thần Đồng.
Bùng Giang Thu Nguyệt: Sông Bùng bắt nguồn từ một cái đầm ở xã Vân Hội, chảy đến thôn Phùng Xá, xã Tiên Lý, dần dần rộng ra tạo thành dòng sông nên gọi là sông Bùng. Vào mùa thu trăng sáng, mặt sông phẳng lặng, ánh sáng tỏa trên mặt nước lăn tăn, tạo thành hàng ngàn mâm bạc sóng sánh, gợi tình.
Nhà thờ họ Vũ đại tôn làng Đông Xương: được công nhận là di tích lịch sử văn hóa năm 2013. Là nơi thò Tham đốc Dũng nghĩa hầu Đaị tướng quân Vũ Trung Lương và 11 quận công của dòng họ.
Chùa Cổ Am: Chùa Cổ Am thuộc xã Minh Châu - huyện Diễn Châu - tỉnh Nghệ An, được xây dựng vào thời hậu Lê (giữa thế kỷ XV). Ban đầu, chỉ có một am nhỏ để nhân dân đến lễ bái nên được gọi là Sơn Am Tự. Vào cuối thời Hậu Lê, Chùa được nhân dân chuyển xuống chân lèn và đổi tên là Hương Phúc Tự. Tuy nhiên, trong thời gian ấy, làng Diễn Minh gặp nhiều rủi ro về mặt tâm linh không thể lý giải, nên vào đời vua Minh Mạng thứ 11, Chùa được chuyển về vị trí cũ với tên gọi Cổ Am Tự như ngày nay.
Chùa Linh Sơn hay khu du lịch tâm linh Chùa Linh Sơn Còn theo ông Nguyễn Nhã Sơn Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Diễn Châu, tổng quy hoạch Dự án Quần thể văn hóa tâm linh đền Cuông huyện Diễn Châu là 130ha, được chia thành 40 hạng mục và 7 phân khu, Đây là dự án thuộc diện thu hút đầu tư của tỉnh năm 2018, do Ủy Ban Nhân Dân huyện diễn châu làm chủ đầu tư; trong đó, tổng mức đầu tư xây dựng chùa Linh Sơn khoảng 120 tỉ đồng từ nguồn xã hội hóa, gia đoạn 2 và giai đoạn 3 sẽ được Huyện Diễn Châu đầu tư Nghìn tỷ các giai đoạn tiếp theo ...
Diễn Châu Có Hai Khu Công nghiệp Khu Công Nghiệp Thọ Lộc và Khu Công Nghiệp Diễn Hồng.
Khu Công Nghiệp Thọ Lộc: Được Thủ tướng Chính phủ đã duyệt chủ trương đầu tư dự án Khu Công Nghiệp Thọ Lộc giai đoạn 1 trên 4000 ngàn tỷ đồng với nhà đầu tư là VSIP Nghệ An , Toàn bộ diện tích quy hoạch dự án thuộc quy hoạch chung của Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An.
Khu Công Nghiệp Diễn Hồng có tới hàng trăm công ty nước ngoài Hàn quốc , Trung quốc, việt Nam đầu tư hàng nghìn tỷ vào khu công nghiệp diễn Hồng ...
Thành Trài diễn châu nơi đóng quân nơi làm các quan phủ diễn châu thành trài diễn châu xây giới thời nhà hồ sau đó bị quân minh chiếm đóng sau đó tướng quân Đinh Lễ ,Nguyễn Xí, Đại Vương Lê Lợi Đánh Vào Thành Trài Diễn châu đô ti tiết tụ cầu cứu Vương Thông thông từ Thành Thăng Long cử tướng Trương Hùng dẫn 1000 tàu chiến cùng 10 vạn quân tiếp viện thành trài diễn châu trên sông bùng Lê Lợi cử Nguyễn xí bao vây thành trài diễn châu Đinh lễ chặn đánh quân tiếp viện trương hùng trên sông bùng trương hùng tử trận 1000 tàu chiến bị thiêu rụi 10 vạn quân bị diệt gọn tiết tụ nhé tin quân tiếp viện bị tiêu diệt liền bỏ thành trài diễn châu cùng các tướng xông ra đánh tìm đường thoát thân, tiết tụ ôm đầu máu chạy ra hoàng mai , sau khi chiếm được thành trài diễn châu lê lợi cùng tướng Nguyễn Xí Đinh lễ tập hợp lực lượng ở Thành trài diễn châu tiến ra đông quan giành chiến thắng …
Thành phủ Diễn Châu ra đời sau thành Thăng Long hơn 800 năm Thành diễn châu xây dựng tương đương to bằng thành thăng Long xưa , rất tiếc nay đã hoàn toàn tiêu thổ. Có chăng, còn sót lại một vài đoạn hào nham nhở về phía Đông, thời gian chưa đủ để bồi hoàn, nơi làm việc của quan phủ xưa thời Nhà Nguyễn Minh Mạng Cho xây dựng Thành phủ diễn làm nơi làm việc quan phủ quân đội cai quản phủ diễn châu tiền xây dựng 500 lượng vàng vật liệu xây dựng thành sò và đất đỏ đá ở núi mộ dạ để xây dựng thành phủ diễn châu, đến thời pháp làm nơi đóng quân của pháp , pháp cho xây dựng trường học tiếng pháp tại diễn châu, Những người học tiếng pháp đầu tiên Ông Nguyễn Đình Đương xóm 4 diễn Thịnh rất giỏi tiếng pháp , Thành phủ diễn đến hiện tại thì chỉ còn vài đoạn hào thành lũy của Thành Diễn châu khu đi tích cỗ bị xâm hại và bị tàn phá nghiêm trọng Thành phủ diễn châu xưa nay còn đâu…vv
Sự phát triển của loài người đã trải qua nhiều thời kỳ đồ đá, đồ đồng....và bây giờ là thời dầu mỏ. Khác với vàng, dầu mỏ dùng để sản xuất, tiêu thụ, hoạt động
Ngự tam gia là ba gia tộc lớn trong chú thuật hồi chiến, với bề dày lịch sử lâu đời, Ngự Tam Gia - Zenin, Gojo và Kamo có thể chi phối hoạt động của tổng bộ chú thuật