Các loài trong lớp này có một bộ vỏ được tạo nên từ tám mảnh vỏ.[4] Các mảnh vỏ này hơi đè lên nhau, nhưng vẫn khớp lại chính xác. Vì điều này, các mảng vỏ vừa bảo vệ vừa đồng thời cho phép chúng uốn người khi cần di chuyển ở bề mặt không bằng phẳng; chúng thậm chí có thể cuộn tròn lại như một trái bóng.[8]
Các loài Polyplacophora hiện diện trên toàn thế giới, từ vùng nước lạnh đến miền nhiệt đới. Chúng sống trên các bề mặt cứng, như trên đá, và kẻ đá.
Chúng sống hoàn toàn ở biển. Điều này khác với các thân mềm hai mảnh vỏ (với nhiều loài thích ứng với môi trường nước lợ và nước ngọt), và chân bụng (thích ứng với môi trường trên cạn).
^Serb, J. M.; Eernisse, D. J. (2008). “Charting Evolution's Trajectory: Using Molluscan Eye Diversity to Understand Parallel and Convergent Evolution”. Evolution Education and Outreach. 1 (4): 439–447. doi:10.1007/s12052-008-0084-1.
^Schwabe, E (2005). “A catalogue of recent and fossil chitons (Mollusca: Polyplacophora) addenda”. Novapex. 6: 89–105.
^Stebbins, T.D.; Eernisse, D.J. (2009). “Chitons (Mollusca: Polyplacophora) known from benthic monitoring programs in the Southern California Bight”. The Festivus. 41: 53–100.
^Puchalski, S.; Eernisse, D.J.; Johnson, C.C. (2008). “The effect of sampling bias on the fossil record of chitons (Mollusca, Polyplacophora)”. American Malacological Bulletin. 25: 87–95. doi:10.4003/0740-2783-25.1.87.
^Connors, M.J.; Ehrlich, H.; Hog, M.; Godeffroy, C.; Araya, S.; Kallai, I.; Gazit, D.; Boyce, M.; Ortiz, C. “Three-Dimensional Structure of the Shell Plate Assembly of the Chiton Tonicella Marmorea and Its Biomechanical Consequences”. Journal of Structural Biology. 177 (2): 314–328. doi:10.1016/j.jsb.2011.12.019.