Pseudophryne corroboree | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Amphibia |
Bộ: | Anura |
Họ: | Myobatrachidae |
Chi: | Pseudophryne |
Loài: | P. corroboree
|
Danh pháp hai phần | |
Pseudophryne corroboree Moore, 1953 |
Pseudophryne corroboree là một loài ếch trong họ Myobatrachidae, bản xứ miền đông nam nước Úc.[2][3]
Loài này được nhà nghiên cứu Fulbright John A. Moore mô tả năm 1953, dựa trên một mẫu vật thu thập ở Towong Hill Station (Trạm đồi Towong) ở Corryong, Victoria, rồi gửi tới bảo tàng Úc. Quản trị viên Roy Kinghorn nhận định đây là loài mới rồi cho phép Moore đứng ra mô tả.[4]
Cá thể P. corroboree cái trưởng thành dài 26–31 mm (1,0–1,2 in), còn con đực dài 22–29 mm (0,87–1,14 in);[5] chúng đều có sọc vàng-đen chạy dọc đầu, lưng, bốn chân. Cả đầu và mình đều ngắn, rộng bè, mõm hơi chóp nhọn, ngón chân không có màng. Mống mắt màu đen.[6] Loài họ hàng P. pengilleyi có sọc hẹp hơn, màu ngả về vàng lục.[5]
P. corroboree cư ngụ ở vườn quốc gia Kosciuszko, mạn bắc dãy núi Snowy, phân bố rải rác ở vùng giữa Maragle Range và Smiggin Holes.[7] Dù từng được nhìn nhận là có số lượng đông đảo vào thập niên 1970,[6] số lượng cá thể sụt giảm nghiêm trọng trong thập niên 1980 bởi chytridiomycosis (một bệnh nấm ở lưỡng cư).[8] P. corroboree hiện là một loài cực kỳ nguy cấp,[1] với quần thể hoang dã vào khoảng 30 cá thể.[9] Môi trường sống tự nhiên là đầm lầy chua Sphagnum cao trên 1.200 m (3.900 ft).[6]
Dự án nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt nhằm bảo tồn loài ếch này đã/đang được thực hiện tại bốn cơ sở: Trung tâm nghiên cứu Lưỡng cư (1997), vườn thú Melbourne (2001), vườn thú Taronga (2006), khu bảo tồn Healesville (2007).[8] Đến năm 2018, đã có hơn 400 cá thể P. corroboree trong các vườn thú.[10]
Có năm khu vực nhân giống tại vườn quốc gia Kosciuszko. 2/3 số ếch này chết trong đợt cháy rừng 2019–20. Năm 2022, 100 cá thể từ các dự án nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt được phóng thích ra tự nhiên.[9]