Quân đội Tây Sơn là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.[1] Đây là đạo quân đã ghi nên những chiến công hiển hách trong lịch sử quân sự Việt Nam. Các chiến thắng vang dội cả bên trong lẫn bên ngoài lãnh thổ trong suốt 3 thập niên tồn tại. Lãnh đạo quân sự nổi bật nhất là Nguyễn Huệ, một trong những chỉ huy kiệt xuất nhất của triều đại này.
Các chiến binh Tây Sơn có nguồn gốc khởi phát từ ấp Tây Sơn, thuộc Bình Định ngày nay, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ đã tập hợp lực lượng trong dân chúng đứng lên khởi nghĩa.[2] Họ lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc đã phất cờ nổi dậy vào năm 1771. Bởi do Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Dương và khi đánh trận thường la ó ầm ĩ nên dân gian có câu:[3][4]
Tây Sơn ngày càng được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, gồm cả một số sắc dân thiểu số và người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài và Tập Đình. Những năm đầu tiên lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng họ thường nhận được sự giúp đỡ của người dân quanh vùng. Vào lúc đó, một người thuộc giới trí thức tên là Huyền Khê[5] ủng hộ tiền bạc, một phú nông là Nguyễn Thung[5] ra sức vận động mọi người gia nhập nghĩa quân.[6][7]
Tờ chiếu gửi Ngô Văn Sở vào năm Thái Đức thứ 11, bản từ tiếng Pháp dịch bởi Đặng Phương Nghi, ghi:[8]
Bởi sắc lệnh này ta cho các tướng Đại Tư Mã, Đại Đốc (tức Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân) và các sĩ quan khác biết rằng từ trước tới nay các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị thần dân và duy trì hoà bình, nên ta cũng noi gương các vị tiền bối mà đánh dấu ngày khởi đầu triều đại ta bằng cách soạn ra một bộ luật để dân chúng sống trên đất đai ta nghiêm nhặt tuân theo. Vì thế ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn tất các tác phẩm đó trong một, hai tháng. Trong khi chờ đợi ta ban bố vài pháp quy yêu cầu mọi người và mỗi các ngươi đứng đắn thi hành. Nội dung điều lệ đó như sau:
Đó là những điều ta muốn các ngươi phải biết.
Ngày 3 Tháng Mười [Âm lịch] năm Thái Đức thứ 11.
Quân số Tây Sơn ban đầu vào năm 1771 khoảng 3.000 người, đến 1773 là 26.000 người,[1] vào thời gian đánh Mãn Thanh vượt mức 100.000 quân.[9]
Lệnh tòng quân, bao gồm việc cưỡng bách trong thời gian triển khai ra Bắc đánh quân Mãn Thanh là vô cùng gắt gao. Việc kiểm tra quân số và thi hành kỷ luật quân đội rất nghiêm khắc. Kỷ luật quân đội cũng bù đắp phần nào yếu kém bởi sự huấn luyện vội vã để có thể đánh trận. Dựa theo sự mô tả của các nhà truyền đạo phương Tây lúc đó, Tây Sơn gần như sử dụng "chiến tranh toàn dân", tất cả mọi người đều được huy động, nhà sư cũng bị bắt đi lính, phụ nữ và con gái phải theo trợ chiến. Người già, con nít chừng 15 tuổi trở lên, du thương, cướp biển, dân tộc thiểu số đều được đưa vào quân đội.[8] Theo thư của giáo sĩ La Bartette gửi cho giáo sĩ Blandin ngày 25 tháng 6 năm 1786 thì: "Họ đã phá hủy tất cả những giáo đường đẹp nhất ở đây, họ cũng phá hủy tất cả chùa chiền và bắt tất cả những nhà sư cầm vũ khí để ra trận." Nguyễn Huệ không ngần ngại đốt phá, tàn sát nếu gặp chống cự, để tiêu diệt địch cũng có mà thị uy cũng có. Nắm vững quan điểm kỷ luật là sức mạnh của quân đội, ông hết sức gắt gao trong việc điều quân và nổi tiếng là nghiêm minh. Bertette và Dousssain từng nhiều năm truyền đạo ở miền Thuận Hóa, trong bức thư đề ngày 11-6-1788, đã viết: Nguyễn Huệ đôi khi điều động được từ hai đến ba trăm nghìn quân.[10]
Theo vai trò, quân đội Tây Sơn được tổ chức thành:
- Trung quân
- Tiền quân
- Tả quân
- Hữu quân
- Hậu quân
Theo biên chế đơn vị, quân đội Tây Sơn được tổ chức theo nguyên tắc "ngũ ngũ chế":[11]
Đơn vị | Số lính |
---|---|
Đội (thủy quân gọi là Thuyền) | 60 - 100 |
Cơ | 300 - 500 |
Đạo | 1.500 - 2.500 |
Doanh (cùng một số cơ) | ~ 15.000 |
Quân số của mỗi đội, cơ, đạo không thống nhất, nó thay đổi tùy theo tính chất của binh chủng, tùy theo địa điểm chiến thuật mà các đơn vị đó chiếm đóng. Thông thường mỗi đội có từ 60 đến 100 lính, mỗi cơ từ 300 đến 500 lính, mỗi đạo từ 1.500 đến 2.500. So với quân số ở cấp tương đương của quân đội Lê, Trịnh hoặc Nguyễn, không có sự chênh lệch quan trọng.[12] Doanh và đạo là những đơn vị hỗn hợp có cả các thành phần của bộ binh, pháo binh, kị binh và tượng binh (như đơn vị hợp thành của quân đội hiện đại mỗi khi tác chiến).
Theo chức năng, quân đội Tây Sơn được tổ chức thành:
Theo truyền thống của Đàng Trong, Nhà Tây Sơn luôn luôn có một đạo thân binh, được trang bị tối tân và rất kỷ luật, tên là đội thân binh Thuận Quảng, bao gồm binh sĩ các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam ở Đàng Trong, trong đó có một số đông người Thượng và người Hoa rất thiện chiến. Tướng thường chít khăn đỏ, người miền Bắc gọi họ với ý khinh rẻ là man binh (quân mọi), cuồng Chiêm (quân Chiêm hung tợn) hay quân Quảng Nam. Những địa điểm quan trọng thường có quân "Quảng Nam" đồn trú. Theo Hoàng Xuân Hãn, "quân Tây Sơn cầm cờ đỏ có tháp lông gà nhuộm đỏ, gọi là cờ hồng mao". Trong Lê quý dật sử thì viết rằng quân Tây Sơn khi đóng ở Nghệ An mặc áo màu đỏ tía, chỏm mũ đính lông chiên đỏ, vũ khí dùng tên lửa buộc trên đầu ngọn giáo gọi là hỏa hổ. Y phục này cũng được nhắc đến trong Đại Nam Quốc sử Diễn ca trong câu 1829-30:
Theo đánh giá của người châu Âu đến Đàng Trong thời đó thì quân đội Tây Sơn rất tinh nhuệ, trang bị nhiều vũ khí tân kỳ ở thời đó. Họ sử dụng nhiều loại súng ống bao gồm cả súng đại bác và súng hỏa mai. Quân Tây Sơn cũng được huấn luyện để tự pha chế lấy thuốc nổ và người châu Âu đã kinh ngạc vì lính Tây Sơn nạp đạn rất nhanh, trong khi quân Anh phải thực hiện đến 20 động tác cho mỗi lần nạp đạn thì người Việt chỉ cần có 4 động tác.[13]
Ngay từ thế kỷ 17, lực lượng pháo binh của Trịnh – Nguyễn đã giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc phòng thủ bảo vệ thành lũy, và trong tiến công áp đảo quân địch. Súng đại bác được dùng để phòng thủ, nếu đưa ra trận thì dùng voi kéo hay chở nên rất cơ động.[14]
Quân Tây Sơn là một quân đội lấy tiến công làm chính, họ có lực lượng Voi chiến trang bị pháo, và pháo hạm, vừa có tính cơ động vừa mạnh về hỏa lực, hỏa lực sử dụng chiến đấu và yểm trợ bộ binh khi xung trận. Lực lượng pháo binh Tây Sơn gồm các loại đại bác hạng nặng, hạng nhẹ, các loại hỏa hổ (hỏa tiễn cầm tay). Theo báo cáo của các quan sĩ Pháp từng theo phò Nguyễn Ánh cũng như sử sách nhà Nguyễn đều công nhận tính năng phi thường của các đại pháo và hỏa pháo Tây Sơn. Trong các trận đánh dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, lực lượng pháo binh Tây Sơn lúc nào cũng vượt trội và cơ động nhanh, đáp ứng tốt yêu cầu của chiến trường. Các trận đánh lớn của bộ binh đều có pháo binh yểm trợ và hiệp đồng chiến đấu. Trong trận đánh ở chiến lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) vào năm 1802, quân Tây Sơn đã huy động cả ngàn khẩu pháo.[15][16]
Các kiểu súng đại bác cỡ nhỏ thì có thể mang trên lưng và bắn một loại đạn nặng chừng hơn 100 gram. Một người lính cõng cái nòng súng dài chừng 2 thước, trong khi một người lính khác mang cái "giá" là một khúc gỗ tròn dài cũng chừng cái nòng súng. Khi tác xạ, cái "giá" được dựng lên bằng hai cái càng hay một cái chạc cao khỏi mặt đất chừng một mét, nòng súng sau đó để lên trên giá trong một cái ngàm sắt. Người lính có thể điều chỉnh độ nhắm và kiểm soát bằng một cái báng tì lên trên vai. Các loại súng này rất tiện lợi cho việc di chuyển và phục kích quân địch.[cần dẫn nguồn]
Quân Tây Sơn sử dụng ngựa thồ và huấn luyện chúng thành ngựa chiến. Nguyễn Nhạc sau khi lên ngôi, lúc sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, Nguyễn Nhạc đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê, ông muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thị Nại.[17]
Tây Sơn ngũ thần mã, là biểu tượng nổi tiếng của các tướng lĩnh Tây Sơn,[18] trong số này thì có ít nhất ba con là giống ngoại hãn huyết mã. Tây Sơn ngũ thần mã uy dũng được vinh danh trong cuốn Tây Sơn nhân vật chí của Đinh Sĩ An, sau khi nhà Tây Sơn diệt vong, chúng vẫn được người Bình Định tưởng nhớ và tôn thờ như linh thú.
Đây là một lực lượng mạnh trong quân đội Tây Sơn, tuy nhiên không rõ có tất cả bao nhiêu voi chiến, ước chừng vài trăm.
Nguyễn Nhạc sau khi lên ngôi vua đã tiến hành chỉnh đốn lực lượng tượng binh, quy định rõ ngạch voi, số đội và các quy định về quản lý, chăm sóc, huấn luyện voi. Theo đó, tượng binh được phiên chế thành các đội, mỗi đội có từ 30-40 con. Đội voi ở mỗi tỉnh có tầu (chuồng) riêng, được các quản tượng trông nom, tập luyện. Hằng năm, trong các đợt tập trận lớn, các đội voi thường được đem ra diễn tập cùng các lực lượng khác.[19]
Trong 5 đạo quân Tây Sơn từ phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn tiến công quân Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 thì có tới 3 đạo quân sử dụng kết hợp tượng binh và kỵ binh, trên mỗi hướng tấn công đều có hàng trăm voi chiến tham gia.[19] Ước trong cuộc tấn công quân Mãn Thanh, 300 voi chiến đã được sử dụng,[20] riêng trận Ngọc Hồi, 100 voi chiến đã xung trận dưới sự chỉ huy của Bùi Thị Xuân.[21]
Trên mỗi voi chiến, ngoài người quản tượng còn có 3 đến 4 binh sĩ cầm vũ khí vừa bảo vệ voi vừa chiến đấu. Ngoài cung, nỏ, giáo cán dài,...tượng binh Tây Sơn còn được trang bị đặc biệt bằng đại bác, hỏa hổ và hỏa cầu lưu hoàng. Như theo Thánh Vũ Ký thì, quân Tây Sơn đều chở đại bác bằng voi mà xông ra trận. Khi Nguyễn Huệ đánh Ngọc Hồi, sử nhà Thanh có đoạn chép thêm: "đại doanh ta vỡ, bị đội voi chiến đốt cháy, vì trên lưng mỗi con voi, có 3-4 tên lính chít khăn đỏ, ngồi ném, tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp mọi nơi, đốt cháy cả người nữa".[22]
Thủy quân Tây Sơn[23][24] có 673 thuyền chiến, 53.250 lính (hạm đội của Vũ Văn Dũng, Thị Nại, năm 1801).
Về chức năng, có hai loại thuyền:
- Thuyền lớn để chở quân, lương thực, hàng hóa khác. Thuyền còn được gắn pháo để đánh chìm thuyền địch.
- Thuyền nhỏ nhẹ và linh động, dùng để bao vây, tấn công và xung kích.
Thuyền chiến bao gồm năm loại:
- Chiến thuyền loại 1:[25]
- Chiến thuyền loại 2:
- Chiến thuyền loại 3:
- Chiến thuyền loại 4:
- Chiến thuyền loại 5:
Và nhiều loại thuyền chiến cỡ nhỏ khác.
Chiến thuyền loại 4 và 5 tuy nhỏ nhưng được đánh giá là rất lợi hại. Vì nhỏ dễ xoay xở, nếu ở sông sẽ chạy bằng chèo, số thủy thủ đủ để thay phiên nhau chèo; nên vừa thủy chiến trên sông hiệu quả, lại vận chuyển binh lính đánh tập kích địch từ xa.
Đến năm 1788, Nguyễn Huệ mâu thuẫn với Nguyễn Nhạc ở phương Nam lại bị áp lực từ phương Bắc khi nhà Thanh chuẩn bị đem quân sang đánh, ông càng gấp rút tổ chức thủy quân để đối phó với tình hình ngày càng quyết liệt. Tổng binh Bảo được cấp thêm 16 đại thuyền nữa và phương tiện để tuyển mộ thêm quân. Barizy- một sĩ quan hải quân Pháp trong hàng ngũ quân Nguyễn Ánh, tường thuật về lực lượng của hạm đội Tây Sơn do Vũ Văn Dũng chỉ huy như sau: "Lực lượng này gồm có 673 chiến hạm đủ cỡ lớn nhỏ. Trong số này, có những chiến hạm lớn trang bị súng đại bác và thủy thủ đoàn nhiều hơn cả những chiến hạm lớn nhất kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có". Trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho biết ở Quy Nhơn, thủy quân Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo hạm, 100 tàu buồm, trang bị rất hùng hậu.[26]
Quân Tây Sơn sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau gồm các loại dao mác thông thường, loại đao dài với lưỡi đao dài bằng cán đao, súng, hỏa hổ, hỏa cẩu, hỏa long, đại bác, tiểu pháo và thuốc nổ.
Hỏa hổ:[27] loại vũ khí có bầu lớn, dài khoảng một thước, khi tác chiến thì phun lửa từ trong ống tống nhựa thông bắn ra, trúng mục tiêu thì bốc cháy.[28][16]
Hỏa cầu lưu hoàng:[27] là một khối kim loại rỗng ruột được nhét đầy thuốc súng, miểng sắt và lưu huỳnh, trên đầu khối kim loại có ngòi dẫn ra. Hỏa cầu được đốt ngòi nổ và ném về phía đối phương.[28][16]
Hỏa tiễn: là một loại súng có nòng dài khoảng hai tấc rưỡi (25 cm). Chúng sẽ được nhồi thuốc súng chia thành ba phần, sau đó dùng cây thụt phần thứ nhất và phần thứ hai riêng rẽ xuống nòng súng, đóng thật chặt mỗi phần, phần thuốc nổ còn lại nhét vào đầu bằng sắt của một mũi tên cắm vào nòng súng. Bước kế tiếp là nhét một sợi tre khô vào trong hộp súng có dây dẫn lửa nối vào. Khi bùi nhùi được đốt lên, mũi tên sẽ bén lửa và phóng ra.[28]
Đối với việc di chuyển, khi mang quân ra Bắc đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ đã áp dụng nguyên tắc "tập thể di chuyển liên tục ngày đêm, cá nhân luân phiên nghỉ dưỡng sức". Nguyễn Huệ đã từng cho quân cứ 3 người một tốp, luân phiên gánh võng nhau, suốt dọc đường 2 người khiên 1 người nghỉ.[29]
Đối với việc vận tải, trong lá thư đề ngày 11.4.1801, Barizy gửi cho Letondal viết về trận hải chiến Thị Nại năm 1801, ghi rằng thủy quân Tây Sơn còn có 4.800 thuyền vận tải trong cảng Thị Nại.[26]
Đối với việc liên lạc, năm 1964 trên báo Hòa Đồng xuất bản ở Sài Gòn, ông Hồ Hữu Tường mô tả quân Tây Sơn có những đoàn "sảo mã" đặc biệt tinh nhuệ, giữ việc thông tin liên lạc, số ngựa trong đoàn sảo mã này phần lớn chọn từ Phú Yên.[30]
Lương thực thường dùng và mang theo trong các cuộc hành quân là bánh tráng, bánh tét,...[28]
Đô đốc thủy binh: |
Khi tiến quân xuống phía Nam, để chuẩn bị đánh quân Xiêm, Nguyễn Huệ không vào thành Gia Định (nơi tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đang đóng giữ), mà cho đóng quân tại Mỹ Tho, nhằm che giấu lực lượng và tiến hành do thám tình hình để lập kế đánh Xiêm.
Trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã chọn khúc sông Mỹ Tho, đoạn từ cửa sông Rạch Gầm đến cửa sông Xoài Mút làm khu vực tác chiến chủ yếu để tiêu diệt quân Xiêm. Rạch Gầm và Xoài Mút là hai con sông nhỏ, nhưng giữ vị trí quan trọng trong kế hoạch của quân Tây Sơn. Thủy binh Tây Sơn có thể bố trí ở hai rạch này tạo thành hai mũi tiến công lợi hại chặn đầu và khóa đuôi toàn bộ đội hình quân Xiêm, khi chúng lọt vào trận địa chuẩn bị sẵn đó.[32] Khoảng giữa cửa sông Rạch Gầm và cửa sông Xoài Mút có các cù lao Thới Sơn,[b].v.v. là nơi thuận lợi để bộ binh Tây Sơn bí mật triển khai pháo binh sẵn sàng đánh vào sườn đội hình quân địch và đón đánh những nhóm quân Xiêm liều mình đổ bộ lên bờ. Những nhánh sông nằm giữa các cù lao và bờ phía nam sẽ là những nơi mai phục và xuất phát của đội thuyền chiến Tây Sơn.[34]
Các trận chiến đấu chủ yếu thường được tiến hành vào nửa đêm và kết thúc trước khi trời sáng, quân Tây Sơn dành thời gian ban ngày cho việc trú quân kín đáo và chuẩn bị đánh khi thời điểm đến. Khoảng thời gian này là một lợi thế trong chiến đấu.[35]
Trong lần đánh Thanh, ngày 20 Tháng Chạp, khi quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ (lúc đó đã lên ngai lấy hiệu là Quang Trung) chỉ huy tiến đến núi Tam Điệp, các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân đến chịu tội vì đã rút lui làm cho quân Thanh tràn vào Thăng Long. Tưởng đắc tội, không ngờ Quang Trung-Nguyễn Huệ cười:
"Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích tướng sĩ, ngoài làm cho giặc phấn khích, kiêu ngạo, dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả. Chúng nó sang đây là mua lấy cái chết đó thôi, ta đã định mẹo cả rồi".
Trong lần đánh Thanh, bên cạnh việc rút lui để bảo toàn lực lượng, để làm tăng thêm lòng kiêu căng của quân Mãn Thanh, Nguyễn Huệ còn sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ 8 người mang lễ vật và thư đến tha thiết xin Tôn Sĩ Nghị dừng quân để tra xét rõ: vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Đắc Thiện Tống bắt và sau đó quân Tây Sơn bắt được Tống. Quả thật, Tôn Sĩ Nghị kiêu căng sai chém đầu Trần Danh Bình, luôn cả Đắc Thiện Tống và cầm tù đoàn sứ giả. Trong lúc đó, vua Quang Trung bí mật chỉnh đốn quân tướng, chuẩn bị chiến trận, quyết một trận đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Vào sáng 30 Tháng Chạp, trước khi ra lệnh tấn công, Quang Trung nói:
"Ta đến mà địch không biết là địch ngủ ta thức, ta đánh mà địch không đề phòng là ta chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng..."
Chính yếu tố bí mật, quân Thanh không nắm được lực lượng của Tây Sơn lại thêm thói khinh thường, đến khi bất ngờ bị tấn công thì không còn kịp chống đỡ.
Trước đó, trong lần kéo quân ra bắc đầu tiên với danh nghĩa "phò Lê diệt Trịnh", thủy quân Tây Sơn bị quân của chúa Trịnh Khải bao vây trên sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để trên mấy chiếc thuyền, rồi cho đánh trống, kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi. Tướng của Trịnh Khải là Đinh Tích Nhưỡng, tưởng quân Tây Sơn tới đánh bèn dàn thuyền chiến, rồi truyền quân sĩ lấy súng bắn cho đến khi hết đạn mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc này, quân Nguyễn Huệ ùa tới đánh, quân của Nhưỡng không chống cự nổi phải bỏ thuyền mà trốn. Các cánh quân khác của chúa Trịnh cũng bị đánh tan, thành Sơn Nam bị hạ.
Trong lần đánh Xiêm, chỉ sau khi đã bố trí xong lực lượng, Nguyễn Huệ mới chủ động cho quân tới khiêu chiến, nhằm kéo quân Xiêm đến đoạn sông đã chuẩn bị trước để tiêu diệt. Quân Xiêm do khinh thường nên đã mắc mưu.[32]
Tại Rạch Gầm-Xoài Mút, trước khi diễn ra trận đánh, Nguyễn Huệ sai người đi thám sát tình hình thực địa, nắm chắc quy luật con nước, đặc điểm các luồng, lạch, cửa sông và địa thế hai bên bờ để bố trí lực lượng. Nguyễn Huệ cho triển khai lực lượng tại khu vực đã được lựa chọn từ trước. Từ Rạch Gầm tới Xoài Mút, ngoài việc lựa chọn bố trí lực lượng thủy quân tinh nhuệ, Nguyễn Huệ còn cho bố trí tập trung đại bác và lực lượng quân bộ ở hai bên bờ để sẵn sàng giáp chiến, bảo đảm khóa chặt quân địch khi chúng đi vào địa bàn tác chiến. Hai bên sườn trận địa mai phục, quân Tây Sơn còn bố trí xen kẽ lực lượng thủy quân ở các luồng, lạch, nhánh sông kết hợp với bộ binh, sẵn sàng đánh vào bên sườn đội hình địch cả trên sông, trên bộ.[34]
Một trong chiến thuật nổi bật của quân Tây Sơn là đánh tốc chiến,[27] trong bức thư của giáo sỹ tên là Le Breton, ghi ngày 02-08-1788, ông viết: "Như thế Nguyễn Huệ đã trở về Phú Xuân vào đầu tháng 7. Ông đã bắt quân phải về gấp rút đến nỗi có nhiều binh sĩ chết vì mệt mỏi và nắng nực. Ngay cả voi ngựa cũng chết". Lúc ra Thăng Long bắt giết Vũ Văn Nhậm, từ Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã tự đốc thức bộ binh, kỵ binh ngày đêm tiến binh. Chừng hơn 10 ngày đã đến Thăng Long. Trong Nhật ký của Giáo hội Truyền giáo Bắc Hà gửi về cho Giáo hội Trung ương có thuật lại sức tiến quân vũ bão của hoàng đế Quang Trung: "Ông (Nguyễn Huệ) tiến như vũ bão ra Bắc và chỉ mất có 10 ngày, không quản đường xa khó nhọc đã giết chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất 3 hay 4 ngày". Với quãng đường dài hơn 600 trăm cây số, thời gian di chuyển chỉ mất 10 ngày; đường sá lại bị núi sông cách trở, việc di chuyển cả một đoàn quân lớn như vậy thật là phi thường. Sức ngựa voi mà còn chịu không nổi phải chết dọc đường huống hồ sức người.[29]
Không chỉ tấn công thần tốc[38] mà chiến thuật đi đôi của Quang Trung là tấn công bất ngờ,[27] đánh vào những thời điểm đối phương không thể ngờ tới, việc phòng bị của họ lơ là vì vậy dẫn đến bại trận.[35]
Trong cuộc tấn công ra bắc vào 1786, trong khi tướng sĩ phía Trịnh mất cảnh giác, thì quân Tây Sơn bắt đầu lên đường ngày 28 tháng 4 âm lịch tức 25 tháng 5 năm 1786.[39] Đến trung tuần tháng 5 âm lịch năm 1786, đạo quân bộ của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tập kích bất ngờ nơi này, quân Trịnh không kịp trở tay. Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra chống cự bị tử trận.[40] Đánh chiếm được Hải Vân, Nguyễn Huệ lập tức thúc quân tiến thẳng ra Phú Xuân. Lần thứ 2, quân Trịnh lại bất ngờ. Trịnh Tông tập trung ở bến Tây Long, có 100 voi chiến,[40] tổng cộng 30.000 quân Trịnh phòng thủ Thăng Long. Trong tình thế nguy cấp biết trước sẽ bị tấn công, quân Trịnh vẫn không cảnh giác, cho rằng quân Tây Sơn chưa thể tiến đến Thăng Long nhanh chóng.[41] Cuối cùng, chính quyền chúa Trịnh sụp đổ.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), quân Tây Sơn đã ra đến tận Ninh Bình. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung nói với binh sĩ rằng chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân Thanh. Quân Mãn Thanh và Lê Chiêu Thống đang trong thời gian chuẩn bị ăn Tết đã không phòng bị tốt, cộng với thói kiêu ngạo của Tôn Sĩ Nghị khiến họ thật sự bất ngờ. Sớm hơn cả dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan vỡ quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, trên đường chạy liên tiếp bị quân Tây Sơn mai phục chặn đánh. Cuối cùng, Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về Trung Quốc.
Một yếu tố tạo nên sức mạnh vượt trội của quân đội Tây Sơn là việc sử dụng phổ biến và tập trung số lượng lớn vũ khí thuốc súng. Các loại vũ khí cầm tay như hỏa hổ gọn nhẹ đã được trang bị cho toàn quân. Ngoài ra còn sử dụng hỏa cầu lưu hoàng giống như một loại lựu đạn cỡ lớn. Điều này đã tăng khả năng chiến đấu trong quân đội. Đại bác cũng sử dụng với số lượng lớn. Các loại vũ khí thuốc súng được kết hợp với đội hình voi chiến, từ lưng voi binh lính sử dụng cả pháo, hỏa hổ, hỏa cầu lưu hoàng.[27] Trong trận đánh ở chiến lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) vào năm 1802, quân Tây Sơn đã huy động cả ngàn khẩu pháo. Ngày 20 tháng 1 năm 1785, hỏa hổ và hỏa cầu lưu huỳnh Tây Sơn đã tấn công dữ dội hơn 300 thuyền chiến Xiêm La trong Trận Rạch Gầm – Xoài Mút.[16][15]
Tây Sơn sử dụng các biện pháp tâm lý để đạt được sự ủng hộ của đông đảo người dân, huy động nhiều thanh niên gia nhập quân đội. Trước hết, trong giai đoạn mới dựng cờ khởi nghĩa, Tây Sơn lợi dụng danh nghĩa nổi dậy chống quyền thần Trương Phúc Loan để phò chúa Nguyễn (ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương). Vì vậy, được lòng cả chúa Nguyễn và nhiều người. Sau diệt Nguyễn, cảm thấy đánh không lại quân Trịnh, Tây Sơn lại tiếp tục hòa hoãn làm cánh tay dài của quân Trịnh.
Giai đoạn sau khi bỏ sử dụng danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiến quân ra Bắc. Thua trên chiến trường, không được lòng dân, Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát.
Vua Quang Trung của triều Tây Sơn đã từng lên kế hoạch xâm lược nhà Thanh Trung Quốc, với ý định lấy lại Lưỡng Quảng, nhưng sau khi vua mất thì kế hoạch này không thực hiện được, và chỉ là dự định.[42][43][44]
Nghĩa quân Tây Sơn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo. Điều này được các giáo sĩ Tây Ban Nha, như Diego de Jumilla ghi lại trong quyển sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam với nội dung như sau: