Remember the Name

"Remember the Name"
Ảnh bìa có chữ F, chữ M và ba ngôi sao màu trắng đặt trên nền đen. Bên ngoài có viền màu đen và màu trắng.
Đĩa đơn của Fort Minor hợp tác với Styles of Beyond
từ album The Rising Tied
Mặt A"Petrified"
Phát hành4 tháng 10 năm 2005
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng3:47
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuấtMike Shinoda
Thứ tự đĩa đơn của Fort Minor
"Remember the Name"
(2005)
"Believe Me"
(2005)
Thứ tự đĩa đơn của Mike Shinoda
"Enjoy the Silence 04"
(2004)
"Petrified/Remember the Name"
(2005)
"Believe Me"
(2005)
Video âm nhạc
"Remember the Name" trên YouTube

"Remember the Name" là một bài hát của Fort Minor, dự án phụ thiên về thể loại nhạc hip hop của Mike Shinoda. Bài hát nằm trong album phòng thu The Rising Tied (2005) duy nhất của dự án và có sự hợp tác từ ban nhạc underground hip hop Styles of Beyond. Sau khi thành lập dự án Fort Minor trong thời gian giải lao từ Linkin Park, Shinoda sản xuất "Remember the Name" và đồng sáng tác bài hát với hai thành viên Takbir Bashir và Ryan Maginn của Styles of Beyond. David Campbell phụ trách biên khúc cho phần dây. "Remember the Name" thuộc thể loại alternative hip hop pha trộn với rap metal. Lời bài hát kể về góc nhìn của một người khi trở thành rapper với lời khuyên từ đoạn điệp khúc rằng hãy để tên tuổi của mình rạng danh thay vì mãi theo đuổi vật chất.

Machine Shop hợp tác với Warner Bros. phát hành "Remember the Name" song song với "Petrified" vào ngày 4 tháng 10 năm 2005 ở cả hai định dạng tải nhạc số và đĩa đơn phát thanh. Sunu Gonera phụ trách đạo diễn video âm nhạc phát hành độc quyền trên Myspace vào ngày 20 tháng 10 năm 2005. Nội dung MV chỉ đơn giản là Shinoda cùng Bashir và Maginn vừa rap vừa di chuyển quanh một quán bar, trong đó có sự góp mặt của các nhân vật khách mời. "Remember the Name" ra mắt ở hạng 66 trên Billboard Hot 100 vào năm 2006 và được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ chứng nhận đĩa 4× Bạch kim vào năm 2018.

Giới chuyên môn dành nhiều lời khen ngợi cho "Remember the Name". Nhiều nhà phê bình âm nhạc chọn ca khúc làm minh chứng cho tài năng của Shinoda trong việc sáng tác và thể hiện nên lời rap ý nghĩa. Ngoài ra, "Remember the Name" còn được sử dụng rộng rãi trong văn hóa đại chúng, đặc biệt là tại các sự kiện thể thao ở Hoa Kỳ. Nhiều ấn phẩm chọn đưa bài hát vào danh sách ca khúc tiêu biểu trong việc tiếp sức thể thao hoặc làm việc. Shinoda biểu diễn "Remember the Name" ở nhiều chương trình âm nhạc cùng với Styles of Beyond. Anh còn đưa bài hát vào danh sách tiết mục khi thực hiện chuyến lưu diễn cùng Linkin Park hoặc solo.

Bối cảnh và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Linkin Park từng đạt thành công thương mại với album thứ hai Meteora (2003) nhờ vào tổng doanh số đạt 5,1 triệu bản tính đến tháng 9 năm 2005.[1] Trong khoảng thời gian giải lao từ ban nhạc rock, Mike Shinoda tiếp tục tìm tòi hướng đi âm nhạc mới với các nhạc cụ sampler.[2] Tháng 4 năm 2005, anh thông báo hợp tác với Jay-Z và ra mắt dự án phụ Fort Minor nhằm mục đích sáng tác và sản xuất các ca khúc thuộc thể loại hip hop. Styles of Beyond được thông báo sẽ góp giọng trong album The Rising Tied. Shinoda cho biết anh làm bạn với ban nhạc underground hip hop Styles of Beyond gần tám năm và bày tỏ biết ơn nhà sản xuất của họ từng giúp anh mua sample đầu tiên. Do đó, anh hé lộ nhan đề ca khúc hợp tác cùng Styles of Beyond, "Remember the Name", với MTV và bảo rằng là sẽ sẵn lòng đưa họ đến với đại chúng qua album đầu tiên trong dự án Fort Minor.[3] Về mặt ý nghĩa của "Remember the Name" khi góp mặt trong The Rising Tied, Shinoda tiết lộ rằng ca khúc có tác dụng "đập tan yếu tố khoa học về âm nhạc [...] đây sẽ là một cách tuyệt vời để giới thiệu dự án với thế giới."[4]

Ngày 4 tháng 10 năm 2005, Fort Minor thông qua hãng phân phối phát hành EP hai đĩa đơn "Petrified" và "Remember the Name" lên nhiều nền tảng tải nhạc số cũng như dưới hình thức vinyl 12 inch nhằm quảng bá tại các câu lạc bộ và đài phát thanh.[5] Phiên bản biểu diễn in-studio tại AOL của "Remember the Name" thì được đăng tải trên trang nghe nhạc AOL Music.[6] Ca khúc từng được phát hành trên trang tải nhạc chuông điện thoại di động của Linkin Park.[7] Trên trang Fort Minor Newsletter, Shinoda đăng tải hình scan bức thư viết tay thông báo rằng video âm nhạc của "Remember the Name" chính thức được phát hành độc quyền trên trang cá nhân Myspace của Fort Minor vào ngày 20 tháng 10 năm 2005.[8] MV "Remember the Name" do Sunu Gonera đạo diễn,[9] nội dung chỉ đơn giản là Shinoda và hai thành viên ban nhạc Styles of Beyond gồm Takbir Bashir và Ryan Maginn vừa rap vừa đi bộ quanh một quán bar. Video còn xuất hiện nhân vật khách mời như Chester Bennington, Brad DelsonRob Bourdon phía Linkin Park, ca sĩ Skylar Grey, Rob DyrdekChristopher Boykin bên chương trình Rob & Big của MTV, DJ Cheapshot và Vin Skully từ Styles of Beyond và rapper Sixx John.[10]

Sáng tác và sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo bản phổ nhạc do Universal Music Publishing Group đăng tải trên Musicnotes.com, "Remember the Name" là một bài hát thuộc thể loại alternative hip hop pha trộn với rap metal do Shinoda cùng hai thành viên Bashir và Maginn của Styles of Beyond sáng tác. Ca khúc có số nhịp trung bình mỗi phút là 86 và sử dụng hợp âm gốc Đô thứ. Tiến trình hợp âm của "Remember the Name" là Cm–AB, và tông giọng của bản rap là nốt G4.[11][12] Nhà phê bình Ivory M. Jones của Billboard phân loại hình thức trình bày của "Remember the Name" bằng từ khóa "braggadocious", tức có nghĩa là khoe khoang và tâng bốc bản thân.[13] Nội dung bản rap kể về những góc nhìn quan điểm khi trở thành rapper[14] và khuyên nhủ rằng là hãy khiến cho mọi người nhớ đến tên tuổi của mình thay vì theo đuổi vật chất qua đoạn điệp khúc.[a][15] Tuy nhiên, câu cuối cùng của đoạn điệp khúc với chữ "and" về mặt nghĩa đen sẽ cộng dồn cho những con số phía trước, tức là lên 200%. Năm 2018, Shinoda khẳng định trên Twitter với một người bảo anh làm sai phép toán rằng "and a hundred percent" nghe hay hơn "that's a hundred percent".[16]

Trên website MTV, Shinoda diễn tả "Remember the Name" giống như một ca khúc "kết hợp 12 track chơi bộ gõ, clapper, nhạc cụ snap và tambourine lại thành một." Anh bảo rằng bản thân anh may mắn khi có thể biểu diễn được nhiều loại nhạc cụ khác nhau mà không phải dùng đến sample giống như Kanye West (do chi phí thực hiện rất tốn kém). Sau khi phối khí phần bộ dây bằng keyboard xong, Shinoda giao lại bản CD cho nhà soạn nhạc David Campbell để ông sáng tác bản phổ cho những nghệ sĩ biểu diễn dây.[17] Do Shinoda đảm nhận công việc biểu diễn đoạn loop chính bằng bàn phím nên các nghệ sĩ cello đã gặp khó khăn khi không biết biểu diễn thế nào. Sau nửa tiếng mày mò với nhiều cách, các nghệ sĩ cello nảy ra ý tưởng là chia "Remember the Name" ra từng khúc ngắn hơn để mỗi người chỉ cần biểu diễn một hoặc hai nốt là đủ. Đến lúc canh chuẩn thời gian xong, âm thanh của bài hát đạt kết quả hoàn hảo.[18] "Remember the Name" được thu âm tại phòng thu The Stockroom và NRG Studios bên California, Hoa Kỳ. Bài hát được Shinoda phối trộn và sản xuất. Mark Kiczula làm nhiệm vụ kỹ thuật, còn Brian "Big Bass" Gardner thì master ca khúc tại Bernie Grundman.[19]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhìn chung, "Remember the Name" nhận về những đón nhận tích cực từ giới chuyên môn. Biên tập viên Christian Hoard của Rolling Stone nhận xét rằng giai điệu u ám theo phong cách rock của "Remember the Name" do Shinoda tạo ra cùng với những vần điệu drop lanh lảnh đã thể hiện được cảm xúc trăn trở của anh khi theo đuổi công việc rapper.[20] Spence D. từ trang IGN diễn tả khả năng truyền tải thông điệp qua flow rap hiếu chiến của Shinoda bằng hai chữ "trôi chảy và tự tin", giúp cho "Remember the Name" trở thành một ca khúc synth sôi động có thể làm sáng rõ hoàn cảnh của những rapper.[21] Nhà phê bình Breia Brissey của Entertainment Weekly cảm nhận ca khúc khiến cô tựa như "có thể cứu lấy thế giới hoặc ít ra chạy được marathon. May mắn là cảm giác đó luôn biến mất sau khi bài hát kết thúc."[22] Simon Ferguson tán dương "Remember The Name" trên báo The Daily Telegraph và gọi đây là một ca khúc thể hiện cảm xúc bạo dạn rõ ràng dưới góc nhìn thứ ba bằng âm thanh nhạc cụ dây cuốn hút và lời rap "chia phần trăm" hấp dẫn.[23]

Jeff Ryce bên tạp chí điện tử HipHopDX chọn "Remember the Name" làm bài hát ví dụ cho tài năng sản xuất nhạc của Shinoda rằng với "những âm thanh bộ dây tiết tấu nhanh nhẹn kèm theo tiếng trống đập mạnh, phần nhạc đang báo hiệu cho thấy [...] Shinoda đang liên tục thể hiện với cảm xúc mạnh mẽ."[24] Bên cạnh đó, Ed Masley xuất bản cho báo Pittsburgh Post-Gazette đánh giá "Remember the Name" đã tái hiện lại phong cách cổ điển của Funkadelic.[25] Sau một lần đi dự hòa nhạc của Fort Minor với Little Brother, Pierre Hamilton biên tập cho website Exclaim! cảm nhận bài hát "chạm đến những giây phút rộn ràng của tuổi dậy thì và khám phá vùng đất hoang rộng lớn của cảm xúc nỗi lo lắng tuổi thiếu niên."[26] Cây viết JT Abate chấp bút cho Teen Ink tán dương rằng "Remember the Name" là một bài hát tuyệt vời để chơi thể thao nhờ vào giai điệu phần nhạc cuốn hút, ca từ hấp dẫn và mang thông điệp tốt đẹp.[15] Stephen Cortez từ tuần báo The USD Vista của đại học San Diego bảo rằng mặc dù The Rising Tied không đạt kỳ vọng, nhàm chán so với ảnh hưởng của Linkin Park và lối thể hiện của Shinoda kém tự nhiên nhưng khi xét về chất lượng giải trí, một track như "Remember the Name" hoàn toàn có thể bắt tai với bất kỳ ai dù ít có hứng thú với hip hop.[27]

Billboard nhận định "Where'd You Go" tuy thoạt đầu được cho là bản hit duy nhất của Fort Minor ở thời điểm tháng 6 năm 2006, nhưng ba tháng sau thì "Remember the Name" xuất hiện trong bảng xếp hạng và trở nên đáng nhớ hơn "Where'd You Go" theo đường dài.[28] Năm 2024, tạp chí xếp "Remember the Name" vào danh sách 100 bài hát tập thể dục và chơi thể thao xuất sắc nhất nhờ vào việc ca khúc thường xuyên góp mặt vào danh sách phát nhạc của người tập luyện và quảng cáo của NBA cũng như đoạn điệp khúc "This is ten percent luck..." đáng nhớ.[29] Brent Bradley trực thuộc trang DJBooth cho rằng chỉnh vì bản rap có cảm xúc tựa như "Lose Yourself" (2002) của nam rapper người Mỹ Eminem kèm theo giai điệu đều đặn sôi động của bộ dây lẫn điệp khúc khó quên nên "Remember the Name" vẫn duy trì sức hút sau hơn một thập kỷ.[30] Nhiều ấn phẩm đã chọn "Remember the Name" làm bài hát xuất sắc trong việc tiếp sức tinh thần thể dục thể thao hoặc truyền động lực làm việc chẳng hạn như Bleacher Report,[31] Men's Health,[32] The Daily Mississippian[33]FloSports.[34]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tuần phát hành ngày 30 tháng 9 năm 2006, "Remember the Name" ra mắt tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ ở vị trí thứ 66.[35] Ca khúc đạt hạng 38 trên bảng xếp hạng phát thanh Pop Airplay của Billboard.[36] Cuối năm 2016, "Remember the Name" trở thành ca khúc chơi trò chơi điện tử hàng đầu trên nền tảng phát trực tuyến Spotify.[37] Bài hát được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ chứng nhận đĩa 4× Bạch kim vào năm 2018 nhờ vào tổng doanh số tiêu thụ đạt khoảng 4.000.000 đơn vị.[38] Phía Anh Quốc, British Phonographic Industry chứng nhận cho "Remember the Name" đĩa Vàng vào năm 2021 với tổng doanh số 400.000 đơn vị tiêu thụ.[39] Tính đến tháng 11 năm 2023, bài hát thu về trên 670 triệu lượt phát trên Spotify.[40]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình trắng đen Mike Shinoda cầm micro để rap tại một buổi biểu diễn.
Shinoda biểu diễn "Remember the Name" ở Carnivores Tour (2014).

Trong khoảng thời gian hoạt động dự án Fort Minor vào năm 2005 và 2006, Shinoda biểu diễn "Remember the Name" nhiều lần cùng Styles of Beyond ở nhiều chương trình âm nhạc khác nhau.[41][42] Nổi bật trong số đó gồm ghi hình trình diễn bài hát tại phòng thu âm Sessions@AOL,[6] biểu diễn lần đầu trên sóng truyền hình qua 7th Avenue Drop của Fuse,[43] Jimmy Kimmel Live!,[44] Last Call with Carson Daly,[45] The Tonight Show with Jay Leno[46] và lễ hội Summer Sonic Festival diễn ra trong các ngày 12 và ngày 13 tháng 8 năm 2006 tại Nhật Bản.[47][48] Nhà báo Christopher Porter trên tờ The Washington Post diễn tả những tiết mục của Fort Minor là náo nhiệt, chặt chẽ, dễ nghe và không giống như rất nhiều màn trình diễn rap "điên cuồng" khác. Ngoài nam rapper chính là Shinoda thì trên sân khấu gồm có hai nghệ sĩ vĩ cầm, một nghệ sĩ cello, một tay trống, ba ca sĩ hát bè, Holly Brook, DJ Cheapshot, hai rapper Ryu và Tak của Styles of Beyond.[49]

"Remember the Name" còn được Shinoda đưa vào danh sách tiết mục khi lưu diễn cùng với Linkin Park. Ngày 24 tháng 5 năm 2014, anh biểu diễn ca khúc ở Act III cùng ban nhạc cho lễ hội KFMA Day.[50] Đến ngày 9 tháng 5 năm 2015, nam rapper trình diễn bài hát tại Rock in Rio USALas Vegas, Nevada.[51] Sang tuần, Shinoda biểu diễn "Remember the Name" trong lúc Linkin Park lui ra sau cánh gà tại lễ hội Rock on the Range.[52] Ngày 12 tháng 5 năm 2018, anh góp mặt tại KROQ Weenie Roast để biểu diễn bài hát cùng với một số ca khúc khác của Linkin Park và Fort Minor. Đây là màn trình diễn đầu tiên của anh sau cái chết của Bennington do tự tử.[53] Tại Reading Festival ngày 25 tháng 8 năm 2018, Shinoda trình diễn ca khúc cùng với nhiều bài hát khác.[54] Anh từng đưa "Remember the Name" vào trong danh sách tiết mục của ba chuyến lưu diễn cùng Linkin Park: Carnivores Tour (2014),[55] The Hunting Party Tour (2014–2015)[56][57]One More Light World Tour (2017).[58] Bài hát góp mặt trong chuyến lưu diễn solo Post Traumatic Tour (2018–2019) của Shinoda.[59][60] Năm 2024, Linkin Park thực hiện lưu diễn đầu tiên sau hơn bảy năm dừng hoạt động, From Zero World Tour, và Shinoda trình diễn đơn ca "Remember the Name" sau "When They Come for Me" tại chuyến lưu diễn này.[61]

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

"Remember the Name" được nhiều lần sử dụng làm bài hát cổ vũ tại các sự kiện thể thao không chỉ để tiếp sức vận động viên mà còn để giải trí đám đông. Bài hát còn được sử dụng ở các trailer phim, các đoạn phim tổng hợp những pha trong thể thao và reel nổi bật. Shinoda trả lời phỏng vấn với Altwire trước sự lan truyền của "Remember the Name" rằng, "Tôi thường không nghĩ đến kết cục của một bài hát sau khi tôi sáng tác. Tôi chỉ tập trung vào việc tạo ra một bài nhạc hay và trung thực. Việc người ta sau này làm gì với nó thì chắc chắn không do tôi nhúng tay."[62]

Tháng 9 năm 2005, EA Sports thông báo soundtrack của trò chơi điện tử NBA Live 06 sẽ có sự góp mặt của "Remember the Name".[63][64] Ca khúc xuất hiện trong tập phim thứ 12 mang tựa đề "The OG" ở loạt phim truyền hình đài CBS Numbers, công chiếu vào ngày 6 tháng 1 năm 2006.[65] "Remember the Name" được sử dụng trong trailer quảng bá trong bộ phim Gridiron Gang (2006) và loạt phim truyền hình Friday Night Lights (2006).[66] Tại một cuộc thi remix nhạc Fort Minor do Warner Bros. Records tổ chức cùng với Creative CommonsMachine Shop Recordings trên website ccMixter.org, Shinoda phát hành các thành phần riêng biệt của "Remember the Name" dưới giấy phép Creative Commons BY-NC vào ngày 8 tháng 3 năm 2006 để các nhà sản xuất âm nhạc trên khắp thế giới dễ dàng remix bài hát một cách hợp pháp. Tất cả đều sử dụng giấy phép CC BY-NC.[67][68]

Tháng 4 năm 2006, "Remember the Name" được sử dụng để quảng cáo các trận bóng rổ playoff TNT mỗi buổi tối, kèm theo đó là những khoảnh khắc highlight mùa giải trong giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ nhằm mục đích thu hút khán giả theo dõi các vòng loại trực tiếp. Phó giám đốc sáng tạo của Turner Sports, ông Craig Barry, cho rằng "phần nhạc cụ và bộ dây tràn đầy sôi động, cùng với lời hook đậm tính logic, đã khiến cho 'Remember the Name' trở thành chiêu bài hoàn hảo trong việc thúc đẩy nhiều người xem những pha hành động đầy kịch tính trong các trận NBA Playoff trên TNT."[69] Trước sự lan truyền của bài hát, Fort Minor hợp tác với website Fuse.tv để tổ chức cuộc thi lồng ghép bài hát vào video ghi lại những pha hành động mãn nhãn trong thể thao kéo dài đến ngày 5 tháng 11 năm 2006. Những người thắng cuộc được tuyên dương trên trang chủ của dự án, nhận quà tặng có chữ ký từ Shinoda và video của họ được đăng tải trên Fuse.[70] Đến tháng 12 năm 2006, nhà báo thể thao Chuck Klosterman từ ESPN cho biết "Remember the Name" được sử dụng làm nhạc đệm cho 90% các trận bóng bầu dục công chiếu truyền hình ở trường đại học.[71]

Biên tập viên Michael Madden từ Consequence of Sound cảm thấy từ đầu thập niên 2010 trở đi, "Remember the Name" được sử dụng làm nhạc nền cho hầu hết các bản phối highlight trận bóng rổ trên YouTube.[72] Bài hát được đưa vào trong trailer quảng bá và nhạc phim Siêu nhí Karate (2010).[14][73] Ca khúc còn được dùng làm nhạc phim Xì Trum 2 (2013).[74] Tháng 11 năm 2017, Lindsey StirlingMark Ballas chọn "Remember the Name" để nhảy freestyle trong chương trình Dancing with the Stars mùa 25.[75] Ngày 8 tháng 9 năm 2019, ca khúc được các hoạt náo viên của đội bóng bầu dục Mỹ New England Patriots trình diễn trước khi đội nhà thi đấu với Pittsburgh Steelers.[76] Cùng năm, BBC Sport sử dụng bản hát lại "Remember the Name" của nữ rapper Ms Banks nhằm quảng bá giải vô địch bóng đá nữ thế giới.[77][78] Bài hát xuất hiện trong gói âm nhạc trò chơi Beat Saber với tựa đề Linkin Park x Mike Shinoda, phát hành vào ngày 5 tháng 10 năm 2023.[79][80]

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. "Petrified (Non-PA Album Version)" – 3:41
  2. "Petrified (Album Version)" – 3:40
  3. "Petrified (Instrumental)" – 3:41
  4. "Remember The Name (Amended Version)" (hợp tác với Styles of Beyond) – 3:46
  5. "Remember The Name (Album Version)" (hợp tác với Styles of Beyond) – 3:47
  6. "Remember The Name (Instrumental)" (hợp tác với Styles of Beyond) – 3:46

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng hàng tuần năm 2006 của "Remember the Name"
Bảng xếp hạng (2006) Vị trí
cao nhất
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[82] 66
Hoa Kỳ Mainstream Top 40 (Billboard)[36] 38

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận của "Remember the Name"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[83] Bạch kim 90.000double-dagger
Ý (FIMI)[84] Vàng 35.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[39] Vàng 400.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[38] 4× Bạch kim 4.000.000double-dagger
Phát trực tuyến
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[85] Vàng 900.000dagger

double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.
dagger Chứng nhận dựa theo doanh số phát trực tuyến.

  1. ^ a b Lời điệp khúc: "This is ten percent luck / Twenty percent skill / Fifteen percent concentrated power of will / Five percent pleasure / Fifty percent pain / And a hundred percent reason to remember the name."
    Tạm dịch: "Đây là mười phần trăm may mắn / Hai mươi phần trăm tại kỹ năng / Mười lăm phần trăm nhờ vào tập trung ý chí / Năm phần trăm đến từ khoái lạc / Năm mươi phần trăm do nỗi thống khổ / Và tên tao thì một trăm phần trăm sẽ được lưu danh."

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Linkin Park's Shinoda Rears Fort Minor” [Shinoda của Linkin Park xây dựng Fort Minor]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 9 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ Moss, Corey (ngày 2 tháng 9 năm 2005). “Mike Shinoda Respects Jay-Z's Retirement, Says Linkin Park Not On Hiatus” [Mike Shinoda tôn trọng quyết định giải nghệ của Jay-Z và bảo rằng Linkin Park không hề dừng hoạt động] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ Crosley, Hillary (ngày 18 tháng 4 năm 2005). “Linkin Park MC Builds A Fort With Jay-Z, Common, John Legend” [Giọng ca Linkin Park thành lập Fort cùng với Jay-Z, Common, John Legend] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ “MorleyView: Mike Shinoda (Linkin Park, Fort Minor) Interview” [MorleyView: Phỏng vấn Mike Shinoda (Linkin Park, Fort Minor)] (bằng tiếng Anh). AntiMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  5. ^ “For The Record: Quick News On Gwen And Pharrell, Metallica, Lindsay Lohan, Beastie Boys, Irv Gotti & More” [Chú ý: Tin tức nhanh về Gwen và Pharrell, Metallica, Lindsay Lohan, Beastie Boys, Irv Gotti và nhiều nghệ sĩ khác] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 21 tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  6. ^ a b “Songs/Videos From AOL Music: Fort Minor” [Bài hát/video từ AOL Music: Fort Minor] (bằng tiếng Anh). AOL Music. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ “Linkin Park Ringtones” [Nhạc chuông Linkin Park]. msf.m-qube.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2024.
  8. ^ Shinoda, Mike (ngày 18 tháng 10 năm 2005). “What's up! Thanks for adding us ... I'm really excited for you to hear the Fort Minor album (soon--Nov. 22). In the meantime, we're going to hit you with a special look at a video for "Remember The Name"!! It will be on the Fort Minor MySpace page this Thursday. Exclusive!! ---> myspace.com/fortminor <--- If you add FM as a friend, you'll be kept in the loop with all the new news on Fort Minor and "The Rising Tied." Keep in touch!” [Mọi người thế nào rồi! Cảm ơn mọi người vì đã thêm chúng tôi vào theo dõi ... tôi thực sự rất vui mừng thay cho các bạn khi album của Fort Minor (sớm được phát hành vào 22/11. Trong lúc đó, bọn tôi định sẽ khiến các bạn trố mắt với video cho "Remember The Name"!! MV sẽ được đăng lên trang MySpace của Fort Minor vào thứ Năm này. Độc quyền đó!! ---> myspace.com/fortminor <--- Khi kết bạn với FM, bạn sẽ luôn nắm bắt mọi tin tức mới nhất về Fort Minor and "The Rising Tied." Nhớ giữ liên lạc với nhau nhé!] (Thông báo viết tay) (bằng tiếng Anh). Fort Minor Newsletter. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024 – qua Linkin Park Association.
  9. ^ Tangalin, John Daniel (ngày 10 tháng 2 năm 2022). 'Raised By Wolves' Season 2 Episode 3 Non-Spoiler Review – "Good Creatures" [Đánh giá không tiết lộ nội dung ‘Raised By Wolves’ mùa 2 tập 3 – “Good Creatures”] (bằng tiếng Anh). The Cinema Spot. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  10. ^ Remember The Name (Video âm nhạc chính thức) (bằng tiếng Anh). Fort Minor. ngày 29 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024 – qua YouTube. Nội dung cốt truyện được diễn giải từ trong video.
  11. ^ “Digital Sheet Music – Fort Minor – Remember the Name” [Bản phổ nhạc kỹ thuật số – Fort Minor – Remember the Name] (bằng tiếng Anh). Musicnotes.com. Universal Music Publishing Group. 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  12. ^ How to play Remember The Name - Fort Minor [Hướng dẫn biểu diễn Remember The Name của Fort Minor] (Video hợp âm chính thức) (bằng tiếng Anh). Mike Shinoda. ngày 21 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024 – qua YouTube.
  13. ^ Jones, Ivory M. (ngày 3 tháng 12 năm 2005). “Reviews: Fort Minor – The Rising Tied” [Các bài đánh giá: Fort Minor – The Rising Tied] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 117 (49): 45. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  14. ^ a b Franklin, Jay (ngày 7 tháng 2 năm 2011). “Fort Minor: The other side of music” [Fort Minor: Mặt khác của âm nhạc]. Visionary Artistry Magazine (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  15. ^ a b Abate, JT (ngày 29 tháng 5 năm 2009). “Music Reviews: Fort Minor -- Remember The Name” [Đánh giá âm nhạc: Fort Minor -- Remember The Name]. Teen Ink (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  16. ^ “Mike Shinoda explains the shady math on Fort Minor's "Remember the Name" [Mike Shinoda giải thích phép toán mờ ám trong "Remember the Name" của Fort Minor] (bằng tiếng Anh). ABC News. ngày 5 tháng 12 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  17. ^ Moss, Corey (ngày 21 tháng 11 năm 2005). “Mike Shinoda: Storyteller” [Mike Shinoda: Người kể chuyện] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  18. ^ Fort Minor – Making of The Rising Tied (DVD) (bằng tiếng Anh). Warner Records. 2005. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024 – qua Internet Archive.
  19. ^ Fort Minor (2005). The Rising Tied (Ghi chú CD của album) (bằng tiếng Anh). Warner Records & Machine Shop Recordings.
  20. ^ Hoard, Christian (ngày 21 tháng 11 năm 2005). “Fort Minor The Rising Tied (Warner Bros.)” [Album The Rising Tied của Fort Minor (Warner Bros.)]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  21. ^ D., Spence (ngày 4 tháng 1 năm 2006). “The Rising Tied Review” [Đánh giá album The Rising Tied]. IGN (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  22. ^ Brissey, Breia (ngày 21 tháng 11 năm 2014). “PopWatch Confessional: What makes you embrace your inner badass?” [PopWatch xưng tội: Điều gì đã giúp bạn giữ cho nội tâm trở nên bản lĩnh?]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  23. ^ Ferguson, Simon (ngày 1 tháng 12 năm 2005). “Music Reviews: The Rising Tied” [Đánh giá âm nhạc: The Rising Tied]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). tr. 12. ProQuest 359390866.
  24. ^ Ryce, Jeff (ngày 18 tháng 12 năm 2005). “Review: Fort Minor - The Rising Tied” [Đánh giá: Fort Minor - The Rising Tied]. HipHopDX (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  25. ^ Masley, Ed (ngày 24 tháng 11 năm 2005). “Review: Fort Minor 'The Rising Tied'” [Đánh giá: Fort Minor 'The Rising Tied']. Pittsburgh Post-Gazette (bằng tiếng Anh). tr. 99 – qua Newspapers.com. On this one, "Remember the Name" revisits classic Funkadelic...
  26. ^ Hamilton, Pierre (ngày 1 tháng 3 năm 2006). “Review: Fort Minor / Little Brother: Phoenix Concert Theatre, Toronto, ON - February 1, 2006” [Đánh giá: Fort Minor / Little Brother: Nhà hát hòa nhạc Phoenix, Toronto, ON - 1 tháng 2 năm 2006]. Exclaim! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  27. ^ Cortez, Stephen (ngày 23 tháng 2 năm 2006). “Shinoda's album fails to live up to the hype, lacks fresh air” [Album của Shinoda không được như kỳ vọng, thiếu đổi mới thú vị]. The USD Vista (bằng tiếng Anh). 43 (3). Đại học San Diego. tr. 11. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024.
  28. ^ “One-Hit Wonders of the 2000s: Page 2” [Nghệ sĩ một bản hit duy nhất của thập niên 2000: Trang 2]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  29. ^ “The 100 Greatest Jock Jams of All Time: Staff List” [100 bài hát tập thể dục thể thao xuất sắc nhất mọi thời đại: Danh sách của nhân viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 2 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  30. ^ Bradley, Brent (ngày 11 tháng 1 năm 2017). “12 Years Later, Fort Minor's "Remember The Name" is Still Wildly Popular” [12 năm sau, “Remember The Name” của Fort Minor vẫn còn rất nổi tiếng] (bằng tiếng Anh). DJBooth. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  31. ^ House, Shane (ngày 8 tháng 8 năm 2008). “What Are The Top-Ten Best Sports Songs Of All-Time?” [Mười bài hát thể thao hay nhất mọi thời đại là gì?] (bằng tiếng Anh). Bleacher Report. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2024.
  32. ^ Rochotte, Emily (ngày 9 tháng 11 năm 2023). “The 12 Best Songs for Your Football Tailgate Playlist” [12 bài hát hay nhất cho danh sách phát bóng bầu dục Mỹ của bạn]. Men's Health (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  33. ^ Henderson, Sarah (ngày 9 tháng 10 năm 2018). “Playlist of the week: Remember to keep your head up” [Playlist trong tuần: Hãy nhớ ngẩng cao đầu]. The Daily Mississippian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  34. ^ Sievers, Chez (ngày 23 tháng 11 năm 2016). “The Best Softball Pump-Up Songs Of All Time” [Những bài hát tiếp sức trận bóng mềm hay nhất mọi thời đại] (bằng tiếng Anh). FloSports. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  35. ^ “All Timberlake, All The Time On Billboard Charts” [Toàn bộ bảng xếp hạng Billboard đều do Timberlake dẫn đầu và mọi lúc]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 9 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  36. ^ a b "Fort Minor Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  37. ^ Stutz, Colin (ngày 1 tháng 12 năm 2016). “Drake & Rihanna Top Spotify's Year-End Lists” [Drake & Rihanna đứng đầu danh sách cuối năm của Spotify]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  38. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Fort Minor – Remember the Name” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  39. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Fort Minor – Remember the Name” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  40. ^ Morton, Luke (ngày 30 tháng 11 năm 2023). "I want to be in the driving seat... I want to be an artist again": Mike Shinoda on new music, Fort Minor, the power of nostalgia and what's coming next” [“Tôi muốn điều khiển tình thế… Tôi muốn trở thành nghệ sĩ một lần nữa”: Mike Shinoda nói về nhạc mới, Fort Minor, sức mạnh của nỗi nhớ hoài cổ và những gì sắp xảy ra]. Kerrang! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  41. ^ “Fort Minor promises exciting show” [Fort Minor đảm bảo mang lại buổi biểu diễn thú vị]. New Straits Times (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 2 năm 2006. tr. 18. ProQuest 271898480.
  42. ^ Remember The Name (Official Live Video) [Remember The Name (Video trực tiếp chính thức)] (Video tổng hợp nhiều phân đoạn buổi biểu diễn ca khúc "Remember The Name" của Fort Minor và Styles of Beyond) (bằng tiếng Anh). Fort Minor. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2024 – qua YouTube.
  43. ^ “Fort Minor”. 7th Avenue Drop (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 11 năm 2005. Phát sóng lúc 5:30 PM EST. Fuse.
  44. ^ “Fort Minor”. Jimmy Kimmel Live! (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 12 năm 2005. Phát sóng lúc 12:05 PM EST. ABC.
  45. ^ “Dr. Drew Pinsky, Fort Minor, Joe Firstman”. Last Call with Carson Daly (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 12 năm 2005. Phát sóng lúc 1:35 PM EST. NBC.
  46. ^ “Colin Firth, Sasha Cohen, Fort Minor”. The Tonight Show with Jay Leno (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 1 năm 2006. Phát sóng lúc 11:35 PM EST. NBC.
  47. ^ Remember The Name (Live from Summer Sonic 2006) [Remember The Name (Trực tiếp tại Summer Sonic 2006)] (bằng tiếng Anh). Fort Minor. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2024 – qua YouTube.
  48. ^ “History of Summer Sonic 2006” [Lịch sử Summer Sonic 2006] (bằng tiếng Nhật). Creativeman Productions. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2024.
  49. ^ Porter, Christopher (ngày 13 tháng 2 năm 2006). “Pop Music [Final Edition]” [Nhạc pop (phiên bản cuối cùng)]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). tr. C.05. ProQuest 409955217.
  50. ^ “Linkin Park Premiered New Song 'Wastelands' Live” [Linkin Park ra mắt bài hát mới 'Wastelands' trực tiếp] (bằng tiếng Anh). Ultimate Guitar. ngày 26 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  51. ^ Hale, Andreas (ngày 10 tháng 5 năm 2015). “Metallica Dominates With Raucous Headlining Set on Day 2 of Rock in Rio USA” [Metallica thống trị bằng loạt tiết mục biểu diễn dẫn dắt rầm rộ vào ngày thứ 2 của Rock in Rio USA]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2024.
  52. ^ Book, Ryan (ngày 18 tháng 5 năm 2015). “Rock on The Range 2015 Day 3 Review & Recap: Linkin Park Goes Big, Rise Against Connects, Tech N9ne Diversifies” [Đánh giá & tóm tắt ngày thứ 3 của Rock on The Range 2015: Linkin Park chơi lớn, Rise Against kết nối, Tech N9ne đa dạng hóa]. Music Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  53. ^ jomatami (ngày 14 tháng 5 năm 2018). “Watch: Mike Shinoda Performs First Concert Since Chester Bennington's Death” [Xem: Mike Shinoda trình diễn sân khấu đầu tiên sau cái chết của Chester Bennington] (bằng tiếng Anh). Ultimate Guitar. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  54. ^ Daly, Rhian (ngày 25 tháng 8 năm 2018). “Watch Sum 41 and Mike Shinoda cover Linkin Park at Reading Festival” [Xem Sum 41 và Mike Shinoda hát lại Linkin Park tại Reading Festival]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  55. ^ Angel, Alison (ngày 13 tháng 8 năm 2014). “Live review: Carnivores Tour f. Linkin Park, 30 Seconds to Mars, AFI, PNC Music Pavilion (8/12/2014)” [Review biểu diễn trực tiếp: Carnivores Tour gồm Linkin Park, 30 Seconds to Mars, AFI tại PNC Music Pavilion (12/8/2014)] (bằng tiếng Anh). Creative Loafing Charlotte. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  56. ^ Winkes, Erik (ngày 18 tháng 11 năm 2014). “Die perfekte Show: Linkin Park live in der Festhalle Frankfurt” [Buổi biểu diễn hoàn hảo: Linkin Park biểu diễn trực tiếp tại Festhalle Frankfurt]. regioactive.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  57. ^ Domoradzka, Weronika (ngày 26 tháng 8 năm 2015). “Linkin Park w Rybniku [Galeria]” [Linkin Park trình diễn ở Rybnik (Thư viện ảnh)]. Anty Radio (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  58. ^ Blum, Jordan (ngày 28 tháng 5 năm 2024). “10 Big Rock + Metal Bands Who Broke Up Without Doing a Farewell Tour” [10 ban nhạc big rock + metal đã giải tán mà không thực hiện chuyến lưu diễn chia tay]. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  59. ^ Childers, Chad (ngày 31 tháng 10 năm 2018). “Mike Shinoda Reunites With Linkin Park's Phoenix Onstage” [Mike Shinoda tái hợp với Phoenix từ Linkin Park trên sân khấu]. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  60. ^ “Watch Mike Shinoda Perform One More Light Live In London” [Xem Mike Shinoda biểu diễn One More Light trực tiếp tại Luân Đôn]. Kerrang! (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  61. ^ DiVita, Joe (ngày 17 tháng 9 năm 2024). “Linkin Park Change One Out of 27 Songs in Set at Second Tour Stop” [Linkin Park đổi một bài trong danh sách tiết mục 27 bài hát ở chặng lưu diễn thứ hai]. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2024.
  62. ^ Oswald, Derek (ngày 24 tháng 6 năm 2015). “Fort Minor's Return: Mike Shinoda On 'Welcome' [Sự tái xuất của Fort Minor: Mike Shinoda nói về bài hát ‘Welcome’]. Altwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  63. ^ “NBA LIVE 06 In-Game Soundtrack Explores New Sound of Hip-Hop” [Nhạc trò chơi NBA LIVE 06 khám phá âm thanh mới của nhạc hip hop] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Thành phố New York: Business Wire. ngày 13 tháng 9 năm 2005. tr. 1. ProQuest 445365948.
  64. ^ “EA SPORTS NBA Live 06 Media Center” [Trung tâm phương tiện của NBA Live 06 do EA SPORTS phát hành] (bằng tiếng Anh). Electronic Arts. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  65. ^ Inman, David (ngày 25 tháng 1 năm 2006). “Headline: The Incredible Inman” [Tiêu đề: Inman đáng kinh ngạc]. Courier Journal (bằng tiếng Anh). tr. E.5. ProQuest 241355021.
  66. ^ Lawrence, Christopher (ngày 2 tháng 10 năm 2006). “'Friday Night Lights' molded into sentimental series” ['Friday Night Lights' được dựng thành loạt phim tình cảm]. Las Vegas Review-Journal (bằng tiếng Anh). tr. 1E. ProQuest 260207972.
  67. ^ Steuer, Eric (ngày 8 tháng 3 năm 2006). “Creative Commons, Warner Bros. Records, and Machine Shop Recordings announce Fort Minor remix contest at ccMixter.org” [Creative Commons, Warner Bros. Records và Machine Shop Recordings công bố cuộc thi remix nhạc Fort Minor tại ccMixter.org] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). San Francisco, Los Angeles: Creative Commons. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024.
  68. ^ Pitler, Howard (tháng 6 năm 2006). “Creative Commons: A New Tool for Schools” [Creative Commons: Công cụ mới dành cho trường học]. Innovate: Journal of Online Education (bằng tiếng Anh). 2 (5). ISSN 1552-3233. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  69. ^ Richburg, Chris (ngày 25 tháng 4 năm 2006). “Fort Minor Member Mike Shinoda Lands NBA Commercial On TNT” [Thành viên Fort Minor Mike Shinoda quảng cáo cho NBA trên kênh TNT]. AllHipHop (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  70. ^ “Fort Minor / Fuse Remember The Name Contest” [Fort Minor / Cuộc thi Remember The Name cùng Fuse] (bằng tiếng Anh). FortMinor.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2024.
  71. ^ Klosterman, Chuck (ngày 6 tháng 12 năm 2006). “E-Ticket: Did Ali invent rap?” [Vé điện tử: Ali có phát minh ra nhạc rap không?] (bằng tiếng Anh). ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2024.
  72. ^ Levy, Pat; Hagle, Will; Madden, Michael (ngày 19 tháng 4 năm 2014). “Dusting 'Em Off: Jay Z and Linkin Park – Collision Course” [Chuyện cũ: Jay Z và Linkin Park – Khóa học va chạm]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  73. ^ Zeitchik, Steven (ngày 10 tháng 6 năm 2010). “Does the new 'Karate Kid' do the original justice?” [Liệu 'Karate Kid' mới có thực hiện được công lý như bản gốc không?]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2024.
  74. ^ Neil Patrick Harris; Brendan Gleeson; Jayma Mays; Katy Perry (2013). Xì Trum 2 (Danh đề kết thúc phim) (bằng tiếng Anh). Columbia Pictures & Sony Pictures Animation. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024 – qua Netflix.
  75. ^ Fremont, Maggie (ngày 20 tháng 11 năm 2017). “Dancing With the Stars recap: 'The Finals' [Điểm lại Dancing With the Stars: 'Chung cuộc']. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  76. ^ Princiotti, Nora (ngày 8 tháng 9 năm 2019). “Patriots' banner ceremony is a blast from the past” [Lễ biểu ngữ của The Patriots là một cú sốc từ quá khứ]. The Boston Globe (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  77. ^ Pellatt, Corey (ngày 6 tháng 6 năm 2019). "Young Girls Need to See Us Be Successful": Ms Banks Talks Empowerment, Female MCs and the Women's World Cup” [“Các cô gái trẻ cần thấy chúng tôi thành công”: Ms Banks nói về trao quyền, các nữ MC và World Cup nữ] (bằng tiếng Anh). Complex Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2024.
  78. ^ Burgum, Becky (ngày 30 tháng 5 năm 2019). “Ms Banks Is The Sound Of The Women's World Cup” [Ms Banks là âm thanh của World Cup nữ]. Elle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2024.
  79. ^ Dvorak, Michaela (ngày 5 tháng 10 năm 2023). “Beat Saber launches Linkin Park x Mike Shinoda Music Pack – out today on PS VR2 and PS VR” [Beat Saber ra mắt gói nhạc Linkin Park x Mike Shinoda – hôm nay trên PS VR2 và PS VR] (bằng tiếng Anh). PlayStation Network. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  80. ^ Lipshutz, Jason (ngày 6 tháng 10 năm 2023). “Mike Shinoda Unveils High-Powered New Single 'Already Over,' Talks Returning to 'Making Stuff for Myself' [Mike Shinoda ra mắt đĩa đơn mới tràn đầy khí chất ‘Already Over’ và nói về việc quay trở lại ‘tự làm mọi thứ cho bản thân’]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  81. ^ “Petrified/Remember The Name (DMD Single) – EP” (bằng tiếng Anh). iTunes Store. ngày 4 tháng 10 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  82. ^ "Fort Minor Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  83. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Fort Minor – Remember the Name” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  84. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Fort Minor – Remember the Name” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024. Chọn "2021" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Remember the Name" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  85. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Fort Minor feat. Styles of Beyond – Remember the Name (Phát trực tuyến)” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Yuzuriha -  Jigokuraku
Nhân vật Yuzuriha - Jigokuraku
Yuzuriha (杠ゆずりは) là một tử tù và là một kunoichi khét tiếng với cái tên Yuzuriha của Keishu (傾けい主しゅの杠ゆずりは, Keishu no Yuzuriha).
Nhật thực: Sự kỳ diệu của tự nhiên HAY sự báo thù của quỷ dữ?
Nhật thực: Sự kỳ diệu của tự nhiên HAY sự báo thù của quỷ dữ?
Từ thời xa xưa, con người đã cố gắng để tìm hiểu xem việc mặt trời bị che khuất nó có ảnh hưởng gì đến tương lai
[Review] Visual Novel Steins;Gate Zero – Lời hứa phục sinh
[Review] Visual Novel Steins;Gate Zero – Lời hứa phục sinh
Steins;Gate nằm trong series Sci-fi của Nitroplus với chủ đề du hành thời gian. Sau sự thành công vang dội ở cả mặt Visual Novel và anime
Bitcoin: Hệ thống tiền điện tử ngang hàng
Bitcoin: Hệ thống tiền điện tử ngang hàng
Hệ thống tiền điện tử ngang hàng là hệ thống cho phép các bên thực hiện các giao dịch thanh toán trực tuyến trực tiếp mà không thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào