Tàu phóng lôi lớp Shershen thuộc Đề án 206 của Ai Cập hoạt động tại Địa Trung Hải vào năm 1989. Con tàu này đã tháo ống phóng ngư lôi
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp tàu phóng lôi Shershen |
Xưởng đóng tàu |
|
Bên khai thác | Xem Các nhà khai thác |
Lớp sau | Lớp Turya |
Lớp con |
|
Thời gian đóng tàu | 1960–1970 |
Hoàn thành | 123 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu phóng lôi |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 34,08 mét (111 ft 10 in) |
Sườn ngang | 6,72 mét (22 ft 1 in) |
Mớn nước | 1,46–1,5 mét (4 ft 9 in–4 ft 11 in)[1] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 45 hải lý trên giờ (83 km/h; 52 mph) |
Tầm xa | 500 hải lý (930 km; 580 mi) ở tốc độ 35 hải lý trên giờ (65 km/h; 40 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 24 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Radar: "Pot Drum", "High Pole", "Drum Tilt" |
Vũ khí |
|
Lớp tàu phóng lôi Shershen (tiếng Anh:’’ Turya class torpedo boat’’,tiếng Nga:’’Торпедные катера проекта 206’’) là tên ký hiệu của NATO cho loại tàu phóng lôi lớp T-3 do Liên Xô nghiên cứu và sản xuất vào thập niên 1960. Tên thiết kế của nó là Đề án 206 Shtorm.
Tàu phóng lôi lớp Shershen được thiết kế dựa trên tàu phóng lôi thuộc Đề án 183.Nó được thiết kế lại nhằm đảm bảo có giá thành rẻ hơn và dễ bảo trì.Chúng sử dụng loại động cơ giống với các lớp tàu Osa,Mol, Bogomol, và Turya.Vỏ tàu được đóng bằng duralumin, thích hợp để tuần tra gần bờ,trong điều kiện thời tiết tốt và khi không khí ít sương mù,tầm nhìn tốt.Nó có hệ thống phòng thủ EW, mức tối thiểu để tham gia vào bất kỳ cuộc hải chiến nào. Vũ khí chính trên tàu bao gồm bốn ống phóng ngư lôi 533 milimét (21,0 in) OTA-53-206M đặt ở hai bên có khả năng tấn công với tốc độ cao các tàu nổi và cả tàu ngầm, loại ngư lôi 53-VA cỡ 533mm có chiều dài 7,9m, nặng 2 tấn và lắp đầu nổ nặng 210 kg. Ngư lôi có độ sâu chiến đấu 6-8m, độ sâu sục sạo 12-16m, tốc độ 29 km/h, cự li bắn 11 km. Nó được điều khiển bởi hệ thống điều khiển hỏa lực OTA-53-206 [2].Ngư lôi Type 53-56 của Khối Warszawa có khả năng bám theo mục tiêu,tuy nhiên,phiên bản 53-65 xuất khẩu cho các nước Trung Đông (như Ai Cập, Syria, Iran, Iraq) lại chỉ có thể phóng thẳng.Mặc dù được thiết kế để mang vũ khí tấn công ra vùng nước sâu nhưng tàu lại không có Sonar còn giá mìn thì thường xuyên bị tháo ra. Ngoài ra,trên tàu còn có 2 pháo cao tốc AK-230 2 nòng 30 mm,1 đặt ở đầu và 1 đặt ở cuối tàu.4 tên lửa đất đối không tầm thấp Strela-2, NATO gọi là SA-7 Grail,phiên bản hải quân gọi là SA-N-5. Ở Việt Nam,tên lửa Strela-2 được gọi là tên lửa A-72.[3]
Phiên bản nâng cấp của tàu phóng lôi lớp Shershen sau này là tàu phóng lôi lớp Turya (tên của Liên Xô là tàu phóng lôi lớp T-68 thuộc đề án lớp 206M Shtorm).Nó có lắp đặt sonar,là loại tàu cánh ngầm có tốc độ cao và có pháo AK-257 57 mm nhưng không có tên lửa Strela 2.Chữ M trong tên Đề án 206M Shtorm viết tắt của từ Modernizirovannyj trong tiếng Nga có nghĩa là hiện đại hóa.
Hiện nay nhiều tàu phóng lôi lớp Shershen và cả tàu phóng lôi lớp Turya đã bị cho ngừng hoạt động do đã cũ kỹ.Các loại tàu phóng lôi trên thế giới nói chung hiện nay đã lạc hậu,chỉ đảm bảo các nhiệm vụ tuần tra bảo vệ vùng nước nông,vùng ven bờ và các cửa sông.Chúng đã được thay thế bằng các tàu hộ vệ tên lửa có tốc độ cao và hỏa lực mạnh.
Một phiên bản đơn giản hóa được Liên Xô thiết kế, chế tạo để xuất khẩu có tên là Đề án 206E. Tên ký hiệu của NATO là lớp Mol. Chúng được xuất khẩu cho các quốc gia ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Một chiếc được Liên Xô giữ lại để huấn luyện cho thủy thủ đoàn nước ngoài.