Tàu phóng lôi lớp Turya T-68 số hiệu HQ-334 của Hải quân Nhân dân Việt Nam
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Bên khai thác | Xem văn bản |
Lớp trước | Tàu phóng lôi lớp Shershen |
Thời gian phục vụ | 1972-nay |
Chế tạo | 51 |
Hoàn thành | 51 |
Đang hoạt động | Khoảng 26 chiếc (năm 2012) |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu phóng lôi |
Trọng tải choán nước | 220 tấn khi bình thường, 250 tấn khi đầy tải |
Chiều dài | 39,6 mét (129,9 ft) |
Sườn ngang | 7,6 m (24,9 ft) |
Mớn nước | 4 m (13,1 ft) |
Động cơ đẩy | 3× Động cơ M503 B2 Diesels; 15,000 hp |
Tốc độ | 40 hải lý trên giờ (74 km/h) |
Tầm xa | 1450 hải lý với tốc độ 37 hải lý/giờ 1.450 hải lý trên giờ (2.685 km/h) và 600 hải lý với tốc độ 14 hải lý/giờ 600 hải lý trên giờ (1.111 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 30 |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Vũ khí |
|
Tàu phóng lôi lớp Turya (tiếng Anh: Turya class torpedo boat, tiếng Nga:Торпедные катера проекта 206-М) là tên gọi của NATO cho loại tàu phóng lôi cánh ngầm cao tốc lớp T-68 thuộc đề án 206M Shtorm (Project 206-M Shtorm) do Liên Xô nghiên cứu, thiết kế và phát triển dựa trên Tàu phóng lôi lớp Shershen vào những năm 1970 của thế kỉ 20.[1]
Thật ra thì Tàu phóng lôi lớp Shershen- nguyên bản phát triển của tàu phóng lôi lớp Turya cũng là tên gọi của NATO đối với tàu phóng lôi cao tốc lớp T-3 thuộc đề án 206 Shtorm (Project 206 Shtorm) cũng do Liên Xô thiết kế và sản xuất. Chữ M ở cụm số từ dự án 206 thực ra là viết tắt của chữ Modernizirovannyj có nghĩa là hiện đại hóa trong tiếng Nga. Có nghĩa là đề án tàu phóng lôi 206M là phiên bản biến thể hiện đại hóa của dự án tàu phóng lôi 206.[2]
Sau khi hoàn thành thành công tàu phóng lôi cao tốc lớp T-3 thuộc đề án 206 vào những năm 1960 thì Liên Xô vẫn tiếp tục nghiên cứu và đã cho ra đời phiên bản hiện đại hóa của nó mang tên tàu phóng lôi cao tốc lớp T-68 thuộc đề án 206M (Tàu phóng lôi lớp Turya). Với một số cải tiến mới, phiên bản T-68 có trọng lượng nặng hơn (tăng từ 172 lên 220 tấn) phiên bản T-3 nhưng vẫn giữ nguyên vận tốc 40 hải lý/giờ, thay bệ phóng tên lửa phòng không tầm thấp SA-N-5 bằng pháo phòng không AK-725 57 mm 2 nòng (phiên bản hải quân của pháo phòng không S-60 AZP 57 mm), 1 pháo đa năng 2M-3M 25 mm 2 nòng, loại bỏ giá rải mìn. Tàu có trang bị các loại radar mới, thêm sonar giúp phát hiện tàu ngầm nhưng các phiên bản xuất khẩu lại không có sonar. 4 ống phóng ngư lôi 533 mm có khả năng tiêu diệt các chiến hạm trên mặt nước và cả các tàu ngầm; loại ngư lôi trang bị là loại 53-VA cỡ 533mm có chiều dài 7,9m, nặng 2 tấn và lắp đầu nổ nặng 210 kg. Ngư lôi có độ sâu chiến đấu 6-8m, độ sâu sục sạo 12-16m, tốc độ 29 km/h, cự li bắn 11 km.[3]
Sau này còn có 1 phiên bản nâng cấp khác của Turya mang tên Turya PTF với tốc độc tăng lên 42 hải lý/giờ, cơ cấu vũ khí giữ nguyên, chỉ nâng cấp ống phóng lôi.
Hiện còn khoảng 26-30 tàu tên phóng lôi T-68 còn hoạt động. Từ những năm 1972 đến 1976, Liên Xô bắt đầu xuất khẩu một số tàu T-68 cho các đồng minh xã hội chủ nghĩa của mình nhưng không nhiều nước có loại tàu này, tàu phóng lôi T-3 Shershen được xuất khẩu nhiều hơn.[5]
Các nước sử dụng:
- 1 ở Hạm đội Baltic
- 1 ở Hạm đội Biển Đen
- 3 ở Hạm đội Caspi
|tiêu đề=
tại ký tự số 1 (trợ giúp)