Square Enix

Square Enix Holdings Co., Ltd.
Tên bản ngữ
株式会社スクウェア・エニックス・ホールディングス
Tên phiên âm
Kabushiki gaisha Sukuwea Enikkusu Hōrudingusu
Tên cũ
Square Enix Co., Ltd.
Loại hình
Đại chúng
Mã niêm yếtTYO: 9684
Ngành nghề
Tiền thân
Thành lập22 tháng 9 năm 1975; 49 năm trước (1975-09-22)[1]
Trụ sở chínhShinjuku, Tokyo, Nhật Bản
Thành viên chủ chốt
  • Fukushima Yasuhiro
    (Chủ tịch danh dự)
    Matsuda Yosuke
    (Chủ tịch)
Sản phẩm
Doanh thuTăng 332 billion yên Nhật[2] (2021)
Tăng 26,94 tỷ yên Nhật[2] (2021)
Chủ sở hữuFukushima Yasuhiro (19.80%)
Số nhân viên5,550[1] (2021)
Chi nhánhCreative Business Unit I–IV
Công ty con§ Công ty con
Websitesquare-enix.com

Square Enix Holdings Co., Ltd.[a]công ty holding và tập đoàn giải trí của Nhật Bản, nổi tiếng với những loạt trò chơi nhập vai như Final Fantasy, Dragon Quest, Kingdom Hearts, và nhiều loạt tác phẩm khác. Bên cạnh xuất bản và phát hành trò chơi điện tử, Square Enix còn kinh doanh sản phẩm ăn theo, trang thiết bị trò chơi điện tử/arcade, và xuất bản manga dưới ấn hiệu Gangan Comics.

Square Enix ban đầu được thành lập vào tháng 4 năm 2003 thông qua sự sáp nhập của 2 công ty SquareEnix. Mỗi cổ phiếu phổ thông của Square được quy đổi bằng 0,85 cổ phiếu của Enix. Vào thời điểm đó, 80% nhân viên Square Enix là nhân viên cũ của Square. Cựu chủ tịch Square là Mada Yoichi được bổ nhiệm làm chủ tịch tập đoàn mới, và cựu chủ tịch Enix là Honda Keiji được chỉ định làm phó chủ tịch. Fukushima Yasuhiro là cổ đông lớn nhất của tập đoàn, đồng thời là người sáng lập Enix, nên trở thành chủ tịch hội đồng quản trị. Tháng 10 năm 2008, Square Enix đã tiến hành phân chia công ty. Square Enix tái tổ chức thành công ty holding Square Enix Holdings Co., Ltd., và công ty con mới có tên là Square Enix Co., Ltd chuyên thực hiện các công việc liên quan đến sản xuất và phát hành trò chơi điện tử.

Một số loạt tác phẩm của Square Enix đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới, với Final Fantasy bán được 144 triệu, Dragon Quest bán được 78 triệu, và Kingdom Hearts bán được 30 triệu.[3] Năm 2005, Square Enix mua lại tập đoàn trò chơi arcade Taito, nổi tiếng với những game như Space Invaders, Bubble BobbleDarius. Năm 2009, Square Enix mua lại nhà phát hành trò chơi Eidos Interactive của Anh, được sáp nhập vào Square Enix Europe để xuất bản những tựa game như Tomb Raider, Deus ExJust Cause. Square Enix đặt trụ sở chính tại tòa nhà Shinjuku Eastside Square ở Shinjuku, Tokyo và có hơn 5000 nhân viên trên toàn cầu thông qua các công ty con.

Lịch sử công ty

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc và trước khi sáp nhập (1975–2003)

[sửa | sửa mã nguồn]

Enix (1975–2003)

[sửa | sửa mã nguồn]

Kiến trúc sư kiêm doanh nhân người Nhật Bản Fukushima Yasuhiro thành lập Enix ngày 22 tháng 9 năm 1975, với tên gọi Eidansha Boshu Service Center.[4][5] Enix tập trung vào việc xuất bản trò chơi, thường là của các công ty hợp tác độc quyền với công ty và có lẽ nổi tiếng nhất với việc xuất bản loạt game console Dragon Quest do Chunsoft phát triển. Các thành viên chủ chốt trong đội ngũ nhà phát triển bao gồm đạo diễn Koichi Nakamura, nhà văn Horii Yuji, họa sĩ Toriyama Akira và nhà soạn nhạc Sugiyama Koichi, cùng những người khác.[6] Trò chơi đầu tiên là Dragon Warrior, nằm trong loạt game nhập vai dựa trên Famicom, được phát hành vào năm 1986 và cuối cùng sẽ bán được 1,5 triệu bản ở Nhật Bản, thiết lập loạt Dragon Quest là loạt sinh lợi nhất của công ty.[7][8] Bất chấp thông báo rằng đối thủ cạnh tranh lâu năm của Enix là Square sẽ phát triển độc quyền cho PlayStation, Enix đã thông báo vào tháng 1 năm 1997 rằng họ sẽ phát hành trò chơi cho cả Nintendo và Sony.[9] Điều này khiến lượng hàng tồn kho của cả Enix và Sony đều tăng đáng kể.[10] Đến tháng 11 năm 1999, Enix được liệt kê lần đầu tiên trên Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, cho thấy nó là một "công ty lớn".[4][11]

Square (1983–2003)

[sửa | sửa mã nguồn]

Miyamoto Masafumi thành lập Square vào tháng 10 năm 1983 với tư cách là bộ phận phần mềm trò chơi máy tính của Den-Yu-Sha, một công ty xây dựng đường dây điện do cha ông làm chủ. Mặc dù vào thời điểm đó, việc phát triển trò chơi thường được tiến hành — bởi chỉ một lập trình viên, Miyamoto tin nếu có các nhà thiết kế đồ họa, lập trình viên và người viết cốt truyện chuyên nghiệp làm việc cùng nhau thì sẽ hiệu quả hơn nhiều.[6]

Sáp nhập (2003)

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả của việc sáp nhập, Enix là công ty còn tồn tại và Square Co., Ltd. bị giải thể.[12][1] Vào tháng 7 năm đó, trụ sở của Square Enix được chuyển đến Yoyogi, Shibuya, Tokyo, để giúp kết hợp hai công ty.[13]

Sau sáp nhập và mua lại (2004–2012)

[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ khi sáp nhập vào năm 2003, Square Enix đã mua lại một số công ty và tạo ra một số công ty con. Tháng 3 năm 2004, Square Enix đã mua lại nhà phát triển ứng dụng di động UIEvolution để củng cố chỗ đứng trong thị trường không dây, mặc dù sau đó nó đã được bán vào tháng 12 năm 2007, thay vào đó, tháng 1 năm 2008 công ty thành lập Square Enix MobileStudio để tập trung vào các sản phẩm di động.[14][15] Tháng 1 năm 2005, Square Enix thành lập Square Enix Trung Quốc, mở rộng lợi ích của công ty tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[13]

Tái cấu trúc (2013)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 26 tháng 3 năm 2013, với lý do doanh số của các trò chơi lớn ở thị trường phương Tây quá thấp, Square Enix tuyên bố tái cấu trúc lớn, dự kiến mất 10 tỷ yên, chủ tịch Wada Yoichi từ chức và người thay thế là Matsuda Yosuke.[16][17] Phil Rogers được bầu làm Tổng giám đốc mới, trong số những người khác.[16][18]

Song song với việc tái cấu trúc này, Giám đốc điều hành Square Enix của Mỹ là Mike Fischer rời công ty vào tháng 5, với cựu Giám đốc điều hành Square Enix Châu Âu Phil Rogers trở thành CEO của Châu Mỹ và Châu Âu.[19]

Sau tái cấu trúc (2013 - nay)

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 3 năm 2013, Square Enix Ấn Độ mở cửa tại Mumbai; tuy nhiên nó đã đóng cửa vào tháng 4 năm 2014.[20] Cũng như Square Enix Latin America ở Mexico,[21] đã bị đóng cửa năm 2015.[22] Một xưởng di động có tên là Smileworks thành lập tại Indonesia tháng 6 năm 2013; tuy nhiên nó đã bị đóng cửa vào tháng 1 năm 2015.[23]

Năm 2019, Square Enix đã mở một văn phòng Ấn Độ một lần nữa ở Bangalore,[24] mở rộng sang xuất bản trò chơi di động cho thị trường Ấn Độ vào năm 2021.[25]

Tháng 3 năm 2021, Forever Entertainment, một xưởng ở Ba Lan, được cho là đang làm việc để đưa một số tài sản của Square Enix lên các hệ máy hiện đại.[26]

Cơ cấu công ty

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1 tháng 10 năm 2008, Square Enix đã chuyển đổi thành công ty cổ phần và đổi tên thành Square Enix Holdings. Đồng thời, các việc kinh doanh mảng trò chơi điện tử và phát hành đã chuyển sang một công ty có tên là Square Enix, với cùng lãnh đạo công ty và văn phòng với công ty mẹ.[13][27][28] Các văn phòng chính cho Square Enix và Square Enix Holdings nằm trong Tòa nhà Shinjuku Eastside Square ở Shinjuku, Tokyo.[27][29]

Phát triển tổ chức

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi sáp nhập năm 2003, bộ phận phát triển của Square Enix được tổ chức thành tám Square và hai Enix Product Development Divisions (開発事業部 kaihatsu jigyōbu?), mỗi nhóm tập trung vào các nhóm trò chơi khác nhau.[30][31][32] Các bộ phận được trải rộng xung quanh các văn phòng khác nhau; ví dụ, Product Development Division 5 (Phòng Phát triển Sản phẩm 5) có văn phòng ở Osaka và Tokyo.[30]

  • Creative Business Unit IV, trưởng bộ phận là Nishikado Hirokazu và tập trung vào loạt Mana, cùng với việc đồng phát triển và xuất bản các bản làm lại và chuyển đổi. Bộ phận này bao gồm Business Division 8 (loạt Mana, cùng với các bản làm lại và chuyển đổi của nhiều loạt khác), Business Division 9 (Schoolgirl Strikers, Grimms Notes), và Business Division 10 (loạt Million Arthur, loạt Chaos Rings).

Mô hình kinh doanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Mô hình kinh doanh của Square Enix sau sáp nhập tập trung vào ý tưởng về "nội dung đa hình", bao gồm phát triển nhượng quyền thương mại trên nhiều phương tiện truyền thông tiềm năng thay vì bị hạn chế bởi một nền tảng chơi trò chơi duy nhất.[33][34] Một ví dụ ban đầu của chiến lược này là bộ manga Fullmetal Alchemist của Enix, đã được chuyển thể thành hai bộ phim truyền hình anime, hai phim rạp, và một số tiểu thuyết và trò chơi video.[35] Các dự án đa hình khác gồm Tổng hợp Final Fantasy VII, Code Age, World of Mana, Ivalice Alliance và loạt phụ Fabula Nova Crystallis Final Fantasy.[36] Theo Wada Yoichi "Rất khó để trúng số. Khi chúng tôi quyết định, chúng tôi phải vắt hết tất cả nước của nó".[37] Tương tự như chương trình Greatest Hit của Sony, Square Enix cũng phát hành lại các trò chơi bán chạy nhất của họ với giá giảm theo nhãn chỉ định "Ultimate Hits".[38]

Kinh doanh

[sửa | sửa mã nguồn]

Trò chơi điện tử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự tập trung chính của Square Enix là vào trò chơi video và chủ yếu được biết đến với các loạt trò chơi video nhập vai.[39] Trong số các tài sản, loạt Final Fantasy, bắt đầu vào năm 1987, là sản phẩm bán chạy nhất, với tổng doanh số trên toàn thế giới là hơn 110 triệu bản tính đến tháng 6 năm 2014.[40] Loạt Dragon Quest, bắt đầu từ năm 1986, cũng có doanh số cao; được coi là một trong những loạt trò chơi phổ biến nhất ở Nhật Bản và các phần mới thường bán chạy hơn các trò chơi khác vào thời điểm phát hành, với tổng doanh số trên toàn thế giới là hơn 71 triệu bản.[40] Gần đây, loạt Kingdom Hearts (hợp tác phát triển cùng với Interactive Studios của Disney bắt đầu từ năm 2002) cũng bắt đầu trở nên phổ biến, với hơn 20 triệu bản bán ra tính đến tháng 3 năm 2014.[41] Các loạt phổ biến khác do Square Enix phát triển bao gồm loạt SaGa với gần 10 triệu bản từ năm 1989, loạt Mana với doanh số hơn 6 triệu kể từ năm 1991, và loạt Chrono với hơn 5 triệu từ năm 1995.[42] Ngoài doanh thu bán hàng, nhiều trò chơi Square Enix cũng được đánh giá cao; 27 trò chơi Square Enix từng được đưa vào tạp chí "Top 100 trò chơi hàng đầu" năm 2006 của tạp chí Famitsu, với 7 trong top 10 và Final Fantasy X giữ vững vị trí số 1.[43] Công ty cũng đã giành giải thưởng của IGN cho Nhà phát triển xuất sắc nhất năm 2006 cho PlayStation 2.[44]

Các trò chơi và loạt thuộc sở hữu của Square Enix bao gồm:

  • nhượng quyền cũ của Square, chẳng hạn như Seiken Densetsu (Mana);
  • nhượng quyền cũ của Enix, chẳng hạn như Star Ocean;
  • Square Enix tạo các loạt, chẳng hạn như Drakengard;
  • các loạt trò chơi của Taito trước khi mua lại, chẳng hạn như Space Invaders;
  • Taito sau khi mua lại đã tạo loạt như một công ty con, chẳng hạn như Groove Coaster;
  • Square Enix America tạo ra các trò chơi, chẳng hạn như Quantum Conundrum, Motley Blocks;
  • nhượng quyền cũ của Eidos, chẳng hạn như Gex, Legacy of Kain ;
  • Square Enix Europe tạo ra các loạt, chẳng hạn như Life Is Strange .

Game engine

[sửa | sửa mã nguồn]

Square Enix đã phát triển hai công cụ trò chơi nội bộ đáng chú ý. Năm 2004, Square Enix bắt đầu hoạt động theo "định dạng 3D chung" cho phép toàn bộ công ty phát triển các tựa game mà không bị giới hạn trong một nền tảng cụ thể: điều này dẫn đến việc tạo ra một công cụ trò chơi có tên Crystal Tools, tương thích với PlayStation 3, Xbox 360, Windows-trên nền PC và ở một mức độ nào đó của Wii.[45][46] Nó lần đầu tiên trình chiếu bản demo công nghệ tại E3 2005 và sau đó được sử dụng cho Final Fantasy XIII dựa trên sự tiếp nhận của bản demo.[47][48] Crystal Tools cũng được sử dụng cho Final Fantasy Versus XIII trước khi đổi tên thương hiệu thành Final Fantasy XV và chuyển sang các nền tảng thế hệ tiếp theo.[49] Việc tinh chỉnh tiếp tục thông qua việc phát triển Final Fantasy XIII-2, và trải qua đại tu lớn cho Lightning Returns: Final Fantasy XIII.[50][51] Sau lần phát hành đó, không có tựa game mới nào dùng Crystal Tools nào được công bố và người ta tin rằng sự phát triển của công cụ này đã bị dừng vĩnh viễn.[52]

Trò chơi trực tuyến

[sửa | sửa mã nguồn]

Square Enix cũng đã tạo ra các trò chơi trình duyệt và các trò chơi trên Facebook, như Legend World, Chocobo's Crystal TowerKnights of the Crystals, và những trò chơi trực tuyến cho Yahoo! Japan, như Monster x Dragon, Sengoku Ixa, Bravely Default: Praying Brage, Star Galaxy, và Crystal Conquest.[53][54][55][56]

Trò chơi trên đám mây

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 2014, công ty mở một công ty trò chơi trên đám mây có tên là Shinra Technologies (trước đây là Project Flare[57]), nhưng nó đã bị đóng cửa vào tháng 1 năm 2016.[58][59] Ngày 9 tháng 10 năm 2014, Square Enix ra mắt một dịch vụ trò chơi trực tuyến khác tại Nhật Bản có tên Dive In, cho phép người chơi truyền phát các trò chơi trên máy chơi game đến các thiết bị iOS hoặc Android.[60] Dịch vụ này thu lợi nhuận từ lượng thời gian người chơi dùng để chơi, với mỗi trò chơi sẽ được miễn phí trong ba mươi phút.[61] Dịch vụ đã bị hủy vào ngày 13 tháng 9 năm 2015.[61] Một số trò chơi Square Enix có sẵn tại Nhật Bản trên dịch vụ phát trực tuyến cụm G.[62][63]

Trò chơi arcade/Giải trí

[sửa | sửa mã nguồn]

Với việc sáp nhập việc kinh doanh của Taito vào Square Enix, công ty đã giành được quyền sở hữu các cơ sở hạ tầng và arcade của Taito và tham gia vào thị trường arcade vào năm 2005.[64] Năm 2010 Taito đã tiết lộ NESiCAxLive, một hệ thống lưu trữ trò chơi dựa trên đám mây và thay đổi chúng thông qua internet thay vì phải mua các bản sao vật lý.[65] Hệ thống này đã được thêm vào nhiều địa điểm chơi trò chơi arcade.[65] Công ty tiếp tục phục vụ khách hàng arcade tại Nhật Bản với các tựa trò chơi arcade độc quyền, với các nhà sản xuất trò chơi vào năm 2015 nói rằng Square Enix có một lượng người hâm mộ trung thành, coi trọng trải nghiệm chơi trò chơi arcade.[66]

Tháng 11 năm 2019, Square Enix công bố công viên giải trí "Ninja Tower Tokyo" từ bộ phận Live Interactive Works mới thành lập.[67][68][69]

Công ty có ba bộ phim đột phá trong ngành công nghiệp điện ảnh. Đầu tiên là Final Fantasy: The Spirits Within (2001) do công ty con Square là Square Pictures sản xuất trước khi sáp nhập với Enix; Square Pictures hiện là công ty con hợp nhất của Square Enix.[70] Thất bại về mặt doanh thu phòng vé của nó khiến Enix trì hoãn việc sáp nhập, điều này đã được xem xét trước khi tạo ra bộ phim cho đến khi Square có lãi một lần nữa.[71] Năm 2005, Square Enix phát hành Final Fantasy VII Advent Children, một phim hoạt hình CGI dựa trên Final Fantasy VII phiên bản dành cho máy PlayStation, lấy bối cảnh hai năm sau các sự kiện trong trò chơi.[72] Một bộ phim khác là Deus Ex đã được sản xuất từ năm 2012 nhưng đến năm 2014 thì vẫn đang trong quá trình viết lại kịch bản.[73][74] Năm 2016 Square Enix tiết lộ một bộ phim có tên Kingsglaive: Final Fantasy XV lấy cơ sở là thế giới của Final Fantasy XV và một loạt web mới phát hành trên YouTube và Crunchyroll có tên Brotherhood: Final Fantasy XV.[75]

Công ty có một bộ phận xuất bản manga tại Nhật Bản (ban đầu là từ Enix) được gọi là Gangan Comics, nơi xuất bản nội dung độc quyền cho thị trường Nhật Bản.[70] Tuy nhiên vào năm 2010, Square Enix đã ra mắt một cửa hàng manga kỹ thuật số dành cho khán giả Bắc Mỹ thông qua các dịch vụ Thành viên, trong đó có một số loạt đáng chú ý được xuất bản trong tuyển tập Gangan.[76] Các tiêu đề được xuất bản bởi Gangan Comics bao gồm Fullmetal Alchemist, Soul Eater và nhiều tựa khác.[76] Các tựa khác bao gồm các bộ chuyển thể manga của nhiều trò chơi Square Enix khác nhau, như Dragon Quest, Kingdom HeartsStar Ocean.[77][78][79] Một số tựa game này cũng đã được chuyển thể thành manga.[80] Fullmetal Alchemist là thương hiệu chuyển thể anime thành công nhất trong nhánh manga của Square Enix, với hơn 64 triệu tập bán ra trên toàn thế giới.[81] Phim được Viz Media cấp phép ở Bắc Mỹ, trong khi hai bộ phim chuyển thể anime là do Funimation Entertainment cấp phép tại Hoa Kỳ.[82][83]

Bắt đầu từ Q4 2019, Square Enix bắt đầu xuất bản một số bộ manga bằng tiếng Anh.[84]

Các mặt hàng lưu niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Square Enix đã tạo ra hàng lưu niệm cho hầu hết tất cả các loạt trò chơi video của họ, mặc dù nhiều mặt hàng chỉ có ở Nhật Bản. Cổng thông tin chơi game trực tuyến cũ của Square Enix là PlayOnline đã bán hàng lưu niệm từ các loạt như Parasite Eve, Vagrant Story, Chocobo Racing, Front Mission, Chrono Cross, và Final Fantasy.[85] Mascot từ loạt trò chơi là trọng tâm trong việc phổ biến đồ lưu niệm, chẳng hạn như Chocobo từ Final Fantasy, có thể kể đến vịt cao su,[86][87] gấu bông Chocobo cho trẻ em,[88] và cốc cà phê.[89] Square Enix cũng thiết kế trang phục nhân vật Chocobo để phát hành Chocobo Tales.[90] Nhân vật Slime từ Dragon Quest cũng thường được sử dụng trong các món hàng lưu niệm của Square Enix, đặc biệt là ở Nhật Bản.[91] Trên trang web mua sắm Square Enix của Nhật Bản cũng có một phần tập trung vào Slime được gọi là "Smile Slime".[92][93] đồ lưu niệm slime bao gồm đồ chơi nhồi bông, hộp bút chì, móc khóa, bộ điều khiển trò chơi, bút stylus và một số trò chơi thẻ bài, bao gồm bản Dragon Quest Slime Racing.[92][93][94][95][96][97] Tại Nhật Bản có bán cả bánh bao nhân thịt heo có hình dạng như slime.[98] Để kỷ niệm 25 năm của Dragon Quest, công ty đã bán các mặt hàng đặc biệt, bao gồm danh thiếp, túi tote và tượng nhỏ pha lê.[92] Rabites từ Mana đã xuất hiện trong một số mặt hàng của Square Enix, bao gồm búp bê nhồi bông, đệm, bật lửa, bàn di chuột, dây đai, thẻ điện thoại, và áo phông.[99] Square Enix cũng sản xuất đồ lưu niệm cho loạt sản phẩm mà họ không sở hữu, bao gồm cả tượng Mass EffectHalo.[100] Công ty còn có các cửa hàng gọi là "Square Enix Cafe" ở Tokyo, Osaka và Thượng Hải, nơi này trưng bày và bán đồ lưu niệm, cũng như phục vụ các món ăn nhẹ kèm cà phê.[101][102][103]

Các công ty con

[sửa | sửa mã nguồn]
Square Enix trên bản đồ Thế giới
London companies
London companies
Square Enix China
Square Enix China
Square Enix NA
Square Enix NA
Montreal companies
Montreal companies
Japan companies
Japan companies
‡ Japan companies Square Enix Square Enix Image Studio Division Square Enix AI & Arts Alchemy Taito Hippos Lab Tokyo RPG Factory Luminous Productions Balan Company
‡ Japan companies
Square Enix
Square Enix Image Studio Division
Square Enix AI & Arts Alchemy
Taito
Hippos Lab
Tokyo RPG Factory
Luminous Productions
Balan Company
Các công ty con của Square Enix hiện đang hoạt động

Công ty con hiện tại

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Trở thành công ty con Vị trí Mục đích Tham khảo.
Square Enix, Inc. (gốc là Square Soft Inc.) Tháng 3 năm 1989 El Segundo, California, Hoa Kỳ Nhà phát hành của Mỹ và bản địa hóa Sở hữu trí tuệ của Nhật Bản. Các đầu sách đã xuất bản trước đây như Câu hỏi hóc búa về lượng tử, Motley Blocks. Được thành lập với tên Square Soft, Inc. và sát nhập vào năm 2003 với các công ty con Square USA Square Electronic Arts để trở thành Square Enix Hoa Kỳ. Nó được đổi tên thành Square Enix, Inc vào tháng 7 năm 2004 và còn được gọi là Square Enix America. [104][105][106][107]
Gangan Comics Ngày 12 tháng 3 năm 1991 Tokyo, Nhật Bản Manga và Tạp chí có tên tuổi trong hoạt động kinh doanh xuất bản. [108]
Square Enix Ltd. (nguồn gốc từ Square Europe Ltd.) Tháng 12 năm 1998 Blackfriars, London, Anh Quốc Công ty con Flagship phía Tây, xuất bản ở Châu Âu, loạt Tomb Raider , Deus Ex, Just Cause, Life Is Strange. Được thành lập với tên gọi Square Europe Ltd. và tiếp nhận Eidos Interactive vào năm 2009. Nó còn được gọi là Square Enix Europe. [109][105]
Square Enix AI & Arts Alchemy Co., Ltd. Ngày 2 tháng 3 năm 2020 Tokyo, Nhật Bản R&D và kinh doanh liên quan đến giải trí AI [110]
Square Enix Business Support, Co., Ltd. Ngày 1 tháng 4 năm 2010 Tokyo, Nhật Bản Hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp thuộc nhóm công ty bao gồm dịch vụ văn phòng, xử lý thông tin và phát triển máy trò chơi arcade [111]
PlayOnline Ngày 28 tháng 1 năm 2000 Tokyo, Nhật Bản Bộ phận dịch vụ trò chơi trực tuyến. [112]
Square Enix (Trung Quốc) Co., Ltd. Ngày 28 tháng 2 năm 2005 Haidian District, Beijing, Trung Quốc Xuất bản tại Trung Quốc. Kế nhiệm của Square Enix Webstar Network Technology (Beijing) Co., Ltd. [113]
Taito Corporation Ngày 28 tháng 9 năm 2005 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản Công ty con về trò chơi điện tử của Square Enix Holdings, loạt Space Invaders, loạt Bubble Bobble, loạt Groove Coaster. [114]
Square Enix Co., Ltd. Ngày 1 tháng 10 năm 2008 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản
Osaka, Nhật Bản
Phát triển trò chơi hàng đầu với Creative Business Unit I thông qua Creative Business Unit IV và công ty phát hành, loạt Final Fantasy, loạt Dragon Quest, loạt Kingdom Hearts. Còn được gọi là Square Enix Nhật Bản [13][28][107]
Crystal Dynamics Ngày 22 tháng 4 năm 2009 Redwood City, California, Mỹ Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Europe. [115]
Eidos Montréal Ngày 22 tháng 4 năm 2009 Montréal, Quebec, Canada Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Europe. [115]
Hippos Lab Ngày 7 tháng 3 năm 2011 Tokyo, Nhật Bản Công ty con của Square Enix Co., Ltd. phát hành game cho điện thoại thông minh. [116]
Tokyo RPG Factory 2015 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Co., Ltd. [117]
Balan Company 2018 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Co., Ltd.
Luminous Productions Ngày 27 tháng 3 năm 2018 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Co., Ltd. [118]
Square Enix Pvt. Ltd. 2019 Bengaluru, Karnataka, Ấn Độ Công ty con xuất bản trò chơi di động cho thị trường Ấn Độ. Còn được gọi là Square Enix India. [24][25]
Square Enix London Mobile Tháng 10 năm 2021 London, Anh Quốc Công ty con phát triển trò chơi di động cho Square Enix Europe.
Square Enix Image Studio Division Ngày 1 tháng 4 năm 2021 Tokyo, Nhật Bản Công ty hoạt hình CGI tập trung vào các đoạn cắt cảnh và sản xuất phim [119]

Cựu công ty con

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Trở thành công ty con Đã đóng cửa hoặc đã bán Vị trí Mục đích Tham khảo
Square Enix Montréal 2012 Tháng 8 năm 2022 Montréal, Quebec, Canada Công ty con phát triển game cho Square Enix Ẻuoppe
Enix America Corporation Inc. 1990 Tháng 11 năm 1995 Redmond, Washington, Mỹ Công ty con đầu tiên của Enix tại Mỹ. [120][121]
Square USA, Inc (trước đây là Square L.A., Inc.) Tháng 8 năm 1995 Ngày 1 tháng 4 năm 2003 Costa Mesa, California, Mỹ Xưởng nghiên cứu và phát triển ở Mỹ của Square Co. Ltd. [122]
DigiCube Ngày 6 tháng 2 năm 1996 Ngày 26 tháng 11 năm 2003 Tokyo, Nhật Bản Công ty con của Square Co. Ltd. tiếp thị và phân phối tại Nhật Bản. [123]
Square Electronic Arts Ngày 27 tháng 4 năm 1998 Ngày 1 tháng 4 năm 2003 Costa Mesa, California, Mỹ Liên doanh với Electronic Arts để xuất bản ở Mỹ. [124]
Visual Works (trước đây là Square Visual Works) Tháng 6 năm 1999 Ngày 1 tháng 4 năm 2021 Tokyo, Nhật Bản Công ty hoạt hình CGI tập trung vào các đoạn cắt cảnh và sản xuất phim. Hợp nhất với Bộ phận Nghệ thuật Hình ảnh để thành lập Square Enix Image Studio Division [119]
Taito Soft Corporation (nguồn gốc từ The Game Designers Studio) 22 tháng 6 năm 1999 Ngày 11 tháng 3 năm 2010 Hirakawa-cho, 2-chome, Chiyoda-ku, Tokyo, Nhật Bản Thương hiệu phát triển game cho Square Enix Co., Ltd. [125][126]
Enix America Inc. 1999 Ngày 1 tháng 4 năm 2003 Seattle, King County, Washington, Mỹ Liên doanh giữa EnixEidos Interactive để phát hành trò chơi Enix cho các thị trường phương Tây. [127][128]
Square Enix Webstar Network Technology (Beijing) Co., Ltd. (trước đây là Enix Webstar Network Technology (Beijing) Co., Ltd.) 2001 Ngày 28 tháng 2 năm 2005 Bắc Kinh, Trung Quốc Bộ phận xuất bản trò chơi Enixcủa Trung Quốc. [113]
UIEvolution Tháng 3 năm 2004 Ngày 17 tháng 12 năm 2007 Bellevue, Washington, Mỹ Bộ phận phát triển phần mềm di động Square Enix. [14]
Taito Art Corporation Ngày 28 tháng 9 năm 2005 Ngày 28 tháng 7 năm 2008 Tokyo, Nhật Bản Công ty con của đại lý bảo hiểm và du lịch Taito. [129]
Taito Tech Co., Ltd. Ngày 28 tháng 9 năm 2005 Ngày 28 tháng 7 năm 2008 Tokyo, Nhật Bản Công ty con của Taito về bảo trì và vận chuyển thiết bị giải trí. [129]
Square Enix of Europe Holdings Ngày 4 tháng 12 năm 2008 Ngày 26 tháng 4 năm 2016 London, Anh Công ty mẹ cho các hoạt động của tập đoàn ở Châu Âu. [130][131]
Beautiful Game Studios Ngày 22 tháng 4 năm 2009 2013 London, Anh UK Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Europe. Loạt Championship Manager. [115]
Eidos Hungary Ngày 22 tháng 4 năm 2009 Ngày 19 tháng 4 năm 2010 Budapest, Hungary Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Europe. [132]
Eidos Interactive (nguồn gốc từ SCi Games) Ngày 22 tháng 4 năm 2009 Ngày 10 tháng 11 năm 2009 Wimbledon, London, Anh Quốc Công ty con xuất bản tài sản trí tuệ phương Tây. [115]
IO Interactive Ngày 22 tháng 4 năm 2009 Ngày 16 tháng 6 năm 2017 Copenhagen, Denmark Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Europe. [133]
SPC‐NO.1 Co., Ltd Ngày 1 tháng 6 năm 2009 Ngày 1 tháng 2 năm 2010 Tokyo, Nhật Bản Công ty mẹ "trên danh nghĩa" của ES1 Corporation, đã hợp nhất với Taito Corporation. [126]
Smileworks Ngày 17 tháng 6 năm 2013 Ngày 14 tháng 1 năm 2015 Jakarta, Indonesia Điện thoại thông minh iOS, Android, Windows PhoneNokia. [134][135]
Shinra Technologies Ngày 18 tháng 9 năm 2014 Tháng 1 năm 2016 New York City, Mỹ Điện toán đám mây. [58][59]
Studio Istolia Ngày 21 tháng 2 năm 2017 Ngày 15 tháng 5 năm 2019 Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản Công ty con phát triển trò chơi cho Square Enix Co., Ltd. [136][137]
  1. ^ 株式会社スクウェア・エニックス・ホールディングス Kabushiki gaisha Sukuwea Enikkusu Hōrudingusu?

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “Corporate Profile – Corporate Information – SQUARE ENIX HOLDINGS CO., LTD”. Hd.square-enix.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2017.
  2. ^ a b “Financial Highlights”. Square Enix. 13 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2021.
  3. ^ Adler, Matthew. “Why Final Fantasy is the Biggest RPG Series of All Time - IGN”. IGN (bằng tiếng Anh).
  4. ^ a b Square Enix. “Square Enix History (timeline)”. Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2007.
  5. ^ Gotemba, Goro and Iwamoto, Yoshiyuki (2 tháng 4 năm 2006). Japan on the Upswing: Why the Bubble Burst and Japan's Economic Renewal. Algora Publishing. tr. 199. ISBN 978-0-87586-461-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ a b Fujii, Daiji (tháng 1 năm 2006). Entrepreneurial choices of strategic options in Japan's RPG development (PDF) (Bản báo cáo). Faculty of Economics, Đại học Okayama. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2008.
  7. ^ Rusel DeMaria, Johnny L. Wilson (2004). “Across the Pacific”. High Score!: The Illustrated History of Electronic Games (ấn bản thứ 2). McGraw-Hill Professional. tr. 374. ISBN 0-07-223172-6.
  8. ^ “Square Enix: February 2, 2004 – February 4, 2004” (PDF). Square Enix. 4 tháng 2 năm 2004. tr. 27. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2008.
  9. ^ “Enix To Develop Titles for the PlayStation”. IGN. 9 tháng 1 năm 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  10. ^ “Enix/Sony Update”. IGN. 16 tháng 1 năm 1997. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  11. ^ “Transfers to 1st section”. Tokyo Stock Exchange. 1 tháng 3 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2008.
  12. ^ “Game software firms Enix, Square to merge on April 1”. Japan Times. 27 tháng 11 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2017.
  13. ^ a b c d “History”. Square Enix Holdings. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2009.
  14. ^ a b Cook, John (17 tháng 12 năm 2007). “Square Enix sells off UIEvolution”. Seattle Post-Intelligencer. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2008.
  15. ^ “Group Companies”. Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ a b “Square Enix CEO Yoichi Wada resigns (update)”. Polygon (bằng tiếng Anh). 26 tháng 3 năm 2013.
  17. ^ Kubba, Sinan. “Square Enix president Wada to step down, $106M 'restructuring' loss [update]”. Engadget (bằng tiếng Anh).
  18. ^ “Notice of Resolutions Adopted at the 33rd Annual Shareholders' Meeting” (PDF).
  19. ^ Crecente, Brian (23 tháng 5 năm 2013). “President of Square Enix of America leaves company (update)”. Polygon (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
  20. ^ Corriea, Alexa Ray (14 tháng 4 năm 2014). “Square Enix India shutters after one year”. Polygon (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2020.
  21. ^ Pearson, Dan (7 tháng 3 năm 2013). “New offices in Mexico, India for Square Enix”. GamesIndustry.biz (bằng tiếng Anh).
  22. ^ Garst, Aron (30 tháng 10 năm 2018). “The Story Behind Square Enix's Failed Latin America Video Game Division”. Kotaku (bằng tiếng Anh).
  23. ^ “Square Enix shutters Indonesian mobile studio”. GamesIndustry.biz (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2020.
  24. ^ a b Desai, Sameer (4 tháng 12 năm 2019). “Square Enix takes second crack at India”. Mumbai Mirror (bằng tiếng Anh).
  25. ^ a b Alwani, Rishi (3 tháng 2 năm 2021). “This Is Square Enix India's First Game”. IGN India (bằng tiếng Anh).
  26. ^ Peppiatt, Dom (1 tháng 3 năm 2021). “Looks like many more Square Enix remakes are on the way”. VG247. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  27. ^ a b “Corporate Profile”. Square Enix Holdings. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2016.
  28. ^ a b 会社概要 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2011.
  29. ^ “Map”. Square Enix Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  30. ^ a b “スクウェアエニックス、合併後の事業部の様子と開発中ソフト”. V Jump. Shueisha Inc. 20 tháng 9 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2003.
  31. ^ Winkler, Chris (2003). “Square Enix Talks Current Status”. RPGFan. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
  32. ^ “(TGS)スクエニ第1開発事業部新規タイトル発表会、詳細レポート!”. Dengeki Online (bằng tiếng Nhật). ASCII Media Works Inc. 26 tháng 9 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  33. ^ Fahey, Rob (16 tháng 7 năm 2004). “Square Peg, European Hole”. Eurogamer. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  34. ^ Tochen, Dan (17 tháng 5 năm 2005). “Square Enix sticks to its strengths”. GameSpot (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  35. ^ :
  36. ^ “2007 Profile” (PDF). Square Enix. 1 tháng 3 năm 2007. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  37. ^ Welsh, Oli (15 tháng 1 năm 2008). “Square Dance”. GamesIndustry.biz. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  38. ^ Gantayat, Anoop (1 tháng 7 năm 2005). “SQUARE ENIX ANNOUNCES ULTIMATE HITS COLLECTION”. IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2016.
  39. ^ Bertschy, Zac (3 tháng 8 năm 2008). “Interview: Square Enix's National Manager of Merchandise, Kanji Tashiro”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  40. ^ a b “Square Enix Press Center – CRYSTAL DYNAMICS UNVEILS RISE OF THE TOMB RAIDER”. Square Enix. 9 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2014.
  41. ^ “Digital Entertainment and Amusement Businesses Related IPs”. Square Enix. 31 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  42. ^ “Square Enix franchises and businesses”. Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2015.
  43. ^ Wollenschlaeger, Alex (6 tháng 3 năm 2006). “Japan Picks the Best Games Ever”. Kikizo. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
  44. ^ “IGN presents Best of 2006”. IGN. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
  45. ^ Nakamura, Seiji (25 tháng 2 năm 2008). “スクエニ村田琢氏、「ホワイトエンジン」改め「Crystal Tools」を正式発表 「The Technology of FINAL FANTASY」、質疑応答も全文収録!!”. Game Watch. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  46. ^ “GDC08: Square Enix unveils Crystal Tools engine”. Engadget. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2015.
  47. ^ Cook, Dave (3 tháng 10 năm 2012). “Final Fantasy anniversary interview: Toriyama speaks”. VG247. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.
  48. ^ Gantayat, Anoop (8 tháng 11 năm 2006). “Final Fantasy XIII Update”. IGN. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2006.
  49. ^ Gantayat, Anoop (21 tháng 9 năm 2011). “Why is Final Fantasy Versus XIII Using the Luminous Engine?”. Andriasang. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012.
  50. ^ Leo, Jon (14 tháng 6 năm 2011). “Final Fantasy XIII-2 Q&A: Yoshinori Kitase and Motomu Toriyama”. GameSpot. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  51. ^ “【E3 2013】2013年はいろいろな形で「FF」を盛り上げたい―「ファイナルファンタジー」シリーズを手がける北瀬佳範氏、鳥山求氏にインタビュー”. Gamer. 13 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  52. ^ Heemsbergen, Derek (2 tháng 11 năm 2014). “Review – Lightning Returns: Final Fantasy XIII”. RPGFan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2016.
  53. ^ “Chocobo's Crystal Tower”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  54. ^ “Knights of the Crystals”. GameSpot. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  55. ^ Ashcraft, Brian (6 tháng 10 năm 2011). “It's Square Enix x Yahoo! Monster x Dragon”. Kotaku. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  56. ^ Spencer (30 tháng 3 năm 2012). “Crystal Conquest Is A Massively Multiplayer Strategy Game… With Summon Monsters”. Siliconera. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2016.
  57. ^ Takahashi, Dean (19 tháng 9 năm 2014). “Final Fantasy creator Square Enix unveils Shinra Technologies to make 'revolutionary' cloud game tech”. VentureBeat. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  58. ^ a b Romano, Sal (18 tháng 9 năm 2014). “Square Enix announces Shinra cloud gaming service”. Gematsu. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2016.
  59. ^ a b Purchese, Robert (6 tháng 1 năm 2016). “Square Enix closes cloud gaming company Shinra Technologies”. Eurogamer. Gamer Network. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  60. ^ Eisenbeis, Richard (19 tháng 9 năm 2014). “Hands On with Square Enix's New Streaming Service”. Kotaku. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  61. ^ a b Alvarez, Edgar (14 tháng 8 năm 2015). “Square Enix is killing its game-streaming service in Japan”. Engadget. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  62. ^ “Final Fantasy VII Streaming On Cloud Gaming Services In Japan”. Siliconera. 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  63. ^ “SQUARE ENIX in G-cluster App”. gcluster.jp. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  64. ^ Jenkins, David (12 tháng 12 năm 2005). “Square Enix To Complete Taito Takeover”. Gamasutra. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  65. ^ a b “Taito Announces Digital Download System For Arcades”. Gamasutra. Gamasutra. 13 tháng 9 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  66. ^ Sato (7 tháng 5 năm 2015). “Square Enix Developers On Why They Make Arcade Games”. Siliconera. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  67. ^ Ashcraft, Brian (5 tháng 12 năm 2019). “Square Enix Announces Ninja Theme Park, Reveals New Innovative Digital Attractions”. Kotaku (bằng tiếng Anh).
  68. ^ “「ゲームのような世界を現実に」をコンセプトとするスクウェア・エニックス・LIVE INTERACTIVE WORKS,第5回テーマパークEXPOに出展へ”. www.4gamer.net (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 11 năm 2019.
  69. ^ “CONTENTS / EVENT一覧|『ゲームの世界を現実に』LIVE INTERACTIVE WORKS|SQUARE ENIX”. www.liveinteractiveworks.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2021.
  70. ^ a b “Annual Report 2007” (PDF). Square Enix. tr. 31. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  71. ^ Long, Andrew. “Square-Enix Gives Chrono Break Trademark Some Playmates”. RPGamer. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  72. ^ “Final Fantasy VII Advent Children Review”. IGN. 17 tháng 4 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  73. ^ Tilly, Chris (10 tháng 7 năm 2012). “Deus Ex Movie in the Works”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2012.
  74. ^ Farokhmanesh, Megan (21 tháng 3 năm 2014). “Deus Ex film 'still alive,' undergoing rewrites”. Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  75. ^ Sato (30 tháng 3 năm 2016). “Kingsglaive: Final Fantasy XV Revealed As An Advent Children-Style CGI Film”. Siliconera. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
  76. ^ a b “Square Enix to Launch Digital Manga Store in North America and France”. Anime News Network.
  77. ^ 週刊少年ジャンプ [Weekly Shōnen Jump] (bằng tiếng Nhật). 45. Japan: Shueisha. 1989. tr. 72.
  78. ^ “USA Today Best-Selling Books Database – Top 150 best sellers”. USA Today. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2007.
  79. ^ Clements, Jonathan; Helen McCarthy (1 tháng 9 năm 2001). The Anime Encyclopedia: A Guide to Japanese animation since 1917. Berkeley, California: Stone Bridge Press. tr. 375. ISBN 1-880656-64-7. OCLC 47255331.
  80. ^ Ashcraft, Brian (1 tháng 4 năm 2011). “Manga From Square Enix Coming To TV And Film”. Kotaku. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  81. ^ “Businesses”. Square Enix. 18 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2015.
  82. ^ “Fullmetal Alchemist, Volume 1”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  83. ^ “Fullmetal Alchemist, Volume 1: The Curse (Episodes 1–4) (2004)”. Amazon. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2008.
  84. ^ Sherman, Jennifer (17 tháng 5 năm 2019). “Square Enix Launches English Manga Imprint in Fall 2019”. Anime News Network. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2022.
  85. ^ “PlayOnline Displays Cool Square Stuff”. IGN. 18 tháng 8 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
  86. ^ Michael McWhertor (22 tháng 1 năm 2008). “Final Fantasy's Chocobo Goes Rubbery, Ducky”. Kotaku. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
  87. ^ SQUARE ENIX MEMBERS (24 tháng 4 năm 2008). “NY Comic Con Event Diary: Day 2”. Square Enix. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2008.
  88. ^ "PlayStation: The Official Magazine Holiday Gift Guide '08," PlayStation: The Official Magazine 13 (Holiday 2008): 37.
  89. ^ McWhertor, Michael (16 tháng 5 năm 2007). “Chocobo Coffee Mugs”. Kotaku. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2009.
  90. ^ Fahey, Mike (14 tháng 12 năm 2006). “Chocobos in the Wild”. Kotaku. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2009.
  91. ^ Henry Gilbert (11 tháng 7 năm 2010). “Everything you need to know about Dragon Quest”. GamesRadar. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  92. ^ a b c Mike Schramm (19 tháng 6 năm 2011). “Dragon Quest 25th anniversary merch features plushie slimes, business card cases”. Joystiq. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  93. ^ a b “Slime Plush Toys”. Slimeshrine. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  94. ^ Joshua Fruhlinger (28 tháng 10 năm 2004). “Dragon Quest Slime PS2 controller from Hori”. Engadget. AOL. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
  95. ^ “Smile Slime”. Square Enix Shop. Square Enix JP Shopping Site. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  96. ^ Candace Savino (26 tháng 11 năm 2007). “Dragon Quest board game out in Japan, looks like good times”. Joystiq. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
  97. ^ Jasmine Maleficent Rea (29 tháng 7 năm 2012). “Dragon Quest slime racing is now a board game”. Games Beat. Venture Beat.
  98. ^ Chris Kohler (27 tháng 4 năm 2010). “Eating Slime Buns at Tokyo's Dragon QuestBar”. Wired. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  99. ^ “Legend of Mana Products”. RPGFan. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.
  100. ^ Ashcraft, Brian (22 tháng 9 năm 2012). “From Mass Effect to Metal Gear, This is a Symphony in Plastic”. Kotaku. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  101. ^ Ashcraft, Brian (20 tháng 12 năm 2012). “A Look Inside The Brand New Square Enix Cafe”. Kotaku Australia (bằng tiếng Anh).
  102. ^ “Square Enix Cafe Osaka Will Have A Grand Opening Event On October 13 With Kingdom Hearts Art”. Siliconera. 4 tháng 10 năm 2017.
  103. ^ “Square Enix Cafe Expands To Shanghai, China”. Siliconera. 31 tháng 10 năm 2017.
  104. ^ “Square Enix Inc - Company Profile and News - Bloomberg Markets”. Bloomberg L.P. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2019.
  105. ^ a b “Square Enix Annual Report for 2004” (PDF). Square Enix. 2004. tr. 67. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  106. ^ Golze, Benjamin (1 tháng 7 năm 2004). “Square Enix reorganizes US subsidiary”. GameSpot (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  107. ^ a b “Square Enix | Jobs & Career Opportunities”. square-enix-games.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  108. ^ “Square Enix Comic Magazines” (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2008.
  109. ^ “SQUARE ENIX (2009) LIMITED – Overview (free company information from Companies House)”. Companies House, Government of the United Kingdom. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2019.
  110. ^ LTD, SQUARE ENIX CO. “SQUARE ENIX AI & ARTS Alchemy Co., Ltd”. SQUARE ENIX AI & ARTS Alchemy Co., Ltd.
  111. ^ “Group Companies|About Square Enix Group|SQUARE ENIX HOLDINGS CO., LTD”. www.hd.square-enix.com.
  112. ^ Yukiyoshi Ike Sato (28 tháng 1 năm 2000). “Breaking News: Square Millennium”. GameSpot. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
  113. ^ a b “Square Enix enhanced a presence in the Chinese online and mobile game market with a 100% Square Enix subsidiary based in Beijing” (PDF). Square Enix staff. 28 tháng 2 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2008.
  114. ^ “Notice on Results of Square Enix's Tender Offer and Change in Consolidated Subsidiary” (PDF). Square Enix Co., Ltd. 22 tháng 9 năm 2005. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2017.
  115. ^ a b c d Corporate Strategy meeting regarding Eidos integration (PDF), Square Enix, 22 tháng 4 năm 2009, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2012
  116. ^ Rose, Mike (23 tháng 3 năm 2011). “Square Enix Forms New Japanese Mobile Studio Hippos Lab”. Gamasutra. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2016.
  117. ^ “About Us”. Tokyo RPG Factory. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2016.
  118. ^ “Final Fantasy 15 director heading up new Square Enix studio”. Polygon. 27 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2018.
  119. ^ a b McLaughlin, Rus (30 tháng 4 năm 2008). “IGN Presents: The History of Final Fantasy VII”. IGN. Ziff Davis. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2008.
  120. ^ “Gamasutra – Selecting Save on the Games We Make, Part 1”. gamasutra.com. 23 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2018.
  121. ^ “Enix on a Quest”. Nintendo Power. Epic Center. Nintendo of America (80): 58. tháng 1 năm 1996.
  122. ^ “History – Corporate Information – SQUARE ENIX HOLDINGS CO., LTD”. Hd.square-enix.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2017.
  123. ^ “Square Enix Holds Strong”. IGN. 4 tháng 2 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2014.
  124. ^ “Square Electronic Arts”. IGN U.K. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  125. ^ “Square Enix To Make Taito A Wholly-Owned Subsidiary” (PDF). Square Enix Co., Ltd. 12 tháng 12 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2016.
  126. ^ a b “Notice of an Absorption-type Company Split Between Taito Corporation and ES1 Corporation” (PDF). Square Enix Holdings. 27 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2016.
  127. ^ Tidwell, Mike (3 tháng 8 năm 1999). “News from Enix”. RPGamer. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2008.
  128. ^ Stone, Cortney (2003). “Enix America Shuts Down”. RPGamer. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2007.
  129. ^ a b “Notice regarding Dissolution and Liquidation of Subsidiaries” (PDF). Square Enix Co., Ltd. 28 tháng 9 năm 2008. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2008.
  130. ^ “Square Enix News Center (English)” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2018.
  131. ^ “SQUARE ENIX OF EUROPE HOLDINGS LIMITED – Overview (free company information from Companies House)”. Companies House, Government of the United Kingdom. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2019.
  132. ^ Crossley, Rob (19 tháng 4 năm 2010). “Square Enix comes clean on cuts and closure”. Develop. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  133. ^ “The Future of IOI”. IO Interactive. 16 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017.
  134. ^ Gera, Emily (17 tháng 6 năm 2013). “Square Enix opens mobile studio in Indonesia”. Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2014.
  135. ^ Anne-Lee, Mary (14 tháng 1 năm 2015). “Square Enix shuts down Indonesia spin-off studio, Smileworks”. Tech in Asia. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
  136. ^ “About Us”. Studio Istolia. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2017.
  137. ^ “Square Enix closes Studio Istolia, cancels Project Prelude Rune”. Gematsu. 14 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2014) sẽ đem lại cho bạn cái nhìn chân thực, những mặt tối và hậu quả nặng nề đằng sau các cuộc chiến tranh mà nhân loại phải hứng chịu.
Về nước làm việc, bạn sợ điều gì?
Về nước làm việc, bạn sợ điều gì?
Hãy thử những cách sau để không bị “shock văn hoá ngược" khi làm việc tại Việt Nam nhé!
Oxytocin - Hormone của tình yêu, lòng tốt và sự tin tưởng
Oxytocin - Hormone của tình yêu, lòng tốt và sự tin tưởng
Trong bài viết này, mình muốn giới thiệu đến các bạn một hormone đại diện cho thứ cảm xúc
Nhân vật Shigeo Kageyama - Mob Psycho 100
Nhân vật Shigeo Kageyama - Mob Psycho 100
Shigeo Kageyama (影山茂夫) có biệt danh là Mob (モブ) là nhân vật chính của series Mob Psycho 100. Cậu là người sở hữu siêu năng lực tâm linh, đệ tử của thầy trừ tà Arataka Reigen