Tam thừa (sa. triyāna, Hán tự: 三乘) theo quan niệm Phật giáo Đại thừa là ba con đường tu hành chính giúp hành giả đạt đến sự giải thoát hay chứng được Niết-bàn ở các cấp độ khác nhau. Ba phương pháp tu đó là: Thanh Văn thừa (sa. śrāvakayāna), Duyên Giác thừa (sa. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (sa. bodhisattvayāna). Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hành trình đến sự giải thoát chỉ có duy nhất một con đường là Phật thừa (hay Nhất thừa, sa. Ekayāna), tuy nhiên do căn cơ chúng sinh khác nhau mà từ một Phật thừa phân biệt giảng nói thành ba thừa (Phẩm 2. Phương Tiện) để cho mọi chúng hữu tình đều có thể giác ngộ.
Thanh Văn thừa là phương pháp tu hành của những vị đệ tử xuất gia (gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) tu học theo Phật toàn giác (như Phật Thích Ca) với mục đích tột cùng là đắc quả A-la-hán (sa. Arhat hay trong một số văn bản dùng là Sāvakabuddha). Nhiều học giả gọi Thanh Văn thừa là Tiểu thừa (sa. Hinayana) vì cho rằng con đường này không thể độ được các chúng sinh khác đắc đạo (tha lực) mà chỉ có thể giúp người tu hành chứng ngộ và bản thân A-la-hán chưa phải là Phật quả. Nội dung tu học của Thanh Văn thừa chủ yếu xoay quanh chân lý Tứ diệu đế (Sa. catvāry āryasatyāni) bao gồm Khổ đế (chỉ ra khổ của mọi chúng sinh bao gồm bát khổ, tam khổ), Tập đế (chỉ ra nguyên nhân của sự khổ đau: do vô minh), Diệt đế (chỉ ra phương pháp tiêu trừ khổ đau) và Đạo đế (hay Bát chính đạo: cách thức tu tập để thoát khỏi khổ đau). Người tu hành theo Thanh Văn thừa có thể đốn ngộ (chứng đạt Niết-bàn ngay tức khắc) hoặc tiệm ngộ (chứng đạt Niết-bàn qua một quá trình dài lâu). Có bốn cấp bậc đạo quả mà hành giả đạt được khi tu theo Thanh Văn thừa (tức Tứ thánh quả), bao gồm:
Tuy nhiên, quả vị A-la-hán chưa phải là sự giác ngộ viên mãn, tột cùng theo quan niệm Đại thừa. Theo Tạp A Tì Đàm Tâm (quyển 5) và Câu Xá Luận (quyển 25), tùy theo căn tính nhanh hay chậm thì A-la-hán được chia thành sáu bậc:
Bích Chi Phật (Sa. Pratyekabuddha) là một vị Phật đã giác ngộ nhưng không có khả năng giáo hóa chúng sinh đắc quả Vô thượng nên kém hơn Phật Toàn Giác (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Duyên Giác thừa thuộc hạng Trung thừa (nằm giữa Thanh Văn thừa và Bồ-tát thừa). Hành giả trên con đường này chủ yếu tu theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (Duyên khởi) mà đắc đạo. Có hai nhóm Bích Chi Phật đó là
Bồ-tát thừa (Bodhisattvayāna) hay Bồ tát đạo được xem là Đại thừa vì những chúng sinh nào tu theo con đường này sẽ đưa đến quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Sa. Anuttara-samyak-sambodhi), bất kỳ ai cũng có thể thụ giới Bồ-tát (gồm 10 giới trọng, 48 giới khinh trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới) và tu theo Bồ-tát thừa dù là bậc xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni) hay bậc tại gia/hàng bạch y (ưu-bà-tắc/ cận sự nam như trưởng giả Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh, ưu-bà-di/ cận sự nữ). Phương pháp tu hạnh chính của con đường này là thực hành các ba-la-mật-đa (sa. paramita), theo dòng văn Bát-nhã và một số kinh điển khác như kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì có lục độ: Bố thí (dana), Trì giới (śīla), Nhẫn (kṣānti), Tinh tấn (vīrya), Thiền định (dhyāna), Trí huệ (prajñā); trong phẩm Thập Địa, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có bổ sung thêm bốn ba-la-mật đó là Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí.
Bồ-tát hay gọi đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (sa. Bodhisattva) là những chúng sinh có nguyện lực lớn muốn vừa tự giải thoát chính mình (tự giác) vừa cứu độ những chúng sinh khác (tha giác). Một vị Bồ-tát có thể phát nguyện thành Phật mới độ chúng sinh (như Phật Vô Lượng Thọ, Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, Phật Bất Động...) hoặc độ chúng sinh rồi mới thành Chính quả (như ngài Địa Tạng Vương Bồ-tát); một số trường hợp thì dù đã đắc quả Vô thượng nhưng vì thương xót chúng sinh nên mới hiện thân làm Bồ-tát (như ngài Quán Thế Âm Bồ-tát trong kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni). Theo kinh Phạm Võng, kinh Anh Lạc thì có 52 cấp bậc của Bồ-tát (xếp từ thấp lên cao) là:
Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi hướng vị được gọi chung là 30 bậc Hiền; Thập địa được gọi là 10 bậc thánh. Thông thường, những vị đã chứng được Viễn hành địa trở lên được gọi là Đại Bồ-tát, Đại sĩ hay Ma-ha-tát-đỏa (Mahasattva) như Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát (A-dật-đa Bồ-tát), Hư Không Tạng Bồ-tát, Trừ Cái Chướng Bồ-tát...
Trong Phẩm 2. Phương tiện của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật Thích-ca có thuyết rằng chỉ có một Phật thừa duy nhất. Tuy nhiên, chúng sinh có căn tính khác nhau nên sự lĩnh hội cũng khác nhau do đó mới từ một Phật thừa mà nói thành tam thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa để mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Trong phẩm 3. Thí dụ, Phật có đưa ra thí dụ minh họa cho ý niệm trên: nhà một vị trưởng giả bị cháy (tượng trưng cho cõi Ta-bà sa. Saha), ông trưởng giả (ẩn dụ cho đức Phật) chạy thoát được ra ngoài trong khi ba đứa con của ông (ẩn dụ cho chúng sinh) vẫn mẩn mê chơi bời trong ngôi nhà cháy rực ấy. Biết căn tính các con thích đồ chơi mới lạ trưởng giả nói lớn với các con rằng sẽ cho các con, mỗi người một trong ba cỗ xe (con đường tu thoát): cỗ xe dê, xe hươu và xe trâu, thế là các con vì phấn khích nên mới chạy ra khỏi ngôi nhà cháy. Sau đó, trưởng giả biết mình giàu có nên những cỗ xe tầm thường ấy không xứng với các con do đó ông quyết định cho mỗi người con cỗ xe đẹp, lớn, giăng châu báu giống nhau, mà không phân biệt (ẩn dụ cho Nhất thừa).