Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Taulant Ragip Xhaka | ||
Ngày sinh | 28 tháng 3, 1991 | ||
Nơi sinh | Basel, Thụy Sĩ | ||
Chiều cao | 1,74 m (5 ft 9 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Basel | ||
Số áo | 34 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2000–2002 | Concordia Basel | ||
2002–2009 | Basel | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2008–2010 | U-21 Basel | 50 | (6) |
2010– | Basel | 204 | (5) |
2012–2013 | → Grasshopper (cho mượn) | 38 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2008–2009 | U17 Thụy Sĩ | 14 | (0) |
2009–2010 | U18 Thụy Sĩ | 6 | |
2009–2010 | U19 Thụy Sĩ | 9 | (0) |
2010–2011 | U20 Thụy Sĩ | 8 | (0) |
2011–2013 | U21 Thụy Sĩ | 4 | (0) |
2014–2021 | Albania | 31 | (1) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 8 năm 2021 |
Taulant Ragip Xhaka là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Albania chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Basel tại Swiss Super League.
Taulant là anh trai của Granit Xhaka, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang chơi cho Arsenal và là đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ. Gia đình họ chuyển từ Priština đến Basel trước khi cả hai ra đời.[1][2][3]
Xhaka khởi nghiệp bóng đá tại Concordia Basel và chuyển đến FC Basel năm 2002. Anh chơi cho nhiều lứa đội trẻ của Basel và từ 2008 đã trở thành thành viên chính trong đội U-21 trong hai năm tại Swiss 1. Liga. Đầu mùa bóng 2010-11, anh và em trai mình được đôn lên đội một và anh bắt đầu thi đấu ở vị trí hậu vệ. Anh có trận ra mắt đội một vào ngày 19 tháng 9 năm 2010 trong chiến thắng 5-0 tại Swiss Cup trước Mendrisio-Stabio.[4] Anh có trận ra mắt Super League vào ngày 27 tháng 2 năm 2011 trong chuyến làm khách thắng 1-0 trước Luzern.[5] Vào cuối mùa bóng anh có được chiếc cúp bạc đầu tiên cùng đội bóng khi Basel giành danh hiệu Super League.
Trong mùa bóng kế tiếp, Xhaka ghi bàn đầu tiên cho Basel vào ngày 10 tháng 9 trong chuyến làm khách thắng 4-0 trước Servette, nơi anh vào sân từ băng ghế dự bị.[6] Ngày 27 tháng 9, anh có trận ra mắt UEFA Champions League khi vào sân thay người trong trận hòa 3-3 trước Manchester United tại Old Trafford..[7] Ngày 18 tháng 1 năm 2012, có thông tin rằng Xhaka được đem cho mượn đến Grasshopper để lấy lại kinh nghiệm chơi bóng cho đội một..[8] Anh có trận ra mắt vào ngày 12 tháng 2 trong thắng lợi 2-0 trước Zürich,[9] và đến cuối mùa bóng anh đã khẳng định vị trí trong đội hình xuất phát, có 13 lần ra sân trong giai đoạn hai của mùa 2011-12. Sau khi có thêm mùa 2012-13 chơi dưới dạng cho mượn tại Grasshoppers, Basel đã gọi anh trở lại thi đấu cho đội một.[10]
Tháng 5 năm 2013, truyền thông đưa tin Xhaka sẽ chào đón lời triệu tập từ đội tuyển Albania.[11] Sau đó Xhaka xác nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng lựa chọn cuối cùng của anh là Albania.[12] Tháng 10 năm 2013, lựa chọn của anh bị ảnh hưởng người em trai Granit do không muốn anh tái phạm sai lầm của mình, lựa chọn Thụy Sĩ thay vì Albania.[13] Ngày 18 tháng 12 năm 2013, Xhaka nhận quốc tịch Albania và có thể chơi cho đội tuyển quốc gia nước này, anh buộc phải nhận lời đề nghị từ FIFA.[14]
Xhaka nhận lời triệu tập thứ ba liên tiếp cho trận đấu với Bồ Đào Nha vào ngày 7 tháng 9 năm 2014, nhằm khởi động chiến dịch vòng loại UEFA Euro 2016. Anh có trận ra mắt ngày 7 tháng 9 và chơi trọn 90 phút trong thắng lợi làm khách 1-0 trước Bồ Đào Nha.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp | Châu Âu | Liên lục đia | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | Ra sân | Ghi bàn | ||
Basel B | 2008–09 | 1. Liga Promotion | 11 | 1 | — | — | — | 11 | 1 | |||
2009–10 | 23 | 2 | — | — | — | 23 | 2 | |||||
2010–11 | 16 | 3 | — | — | — | 16 | 3 | |||||
Tổng cộng | 50 | 6 | — | — | — | 50 | 6 | |||||
Grasshopper | 2011–12 | Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ | 13 | 0 | 1 | 0 | — | — | 14 | 0 | ||
2012–13 | 25 | 0 | 4 | 0 | — | — | 29 | 0 | ||||
Tổng cộng | 38 | 0 | 5 | 0 | — | — | 43 | 0 | ||||
Basel | 2010–11 | Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ | 6 | 0 | 3 | 0 | 0 | 0 | — | 9 | 0 | |
2011–12 | 5 | 0 | 2 | 0 | 2[a] | 0 | — | 9 | 0 | |||
2013–14 | 23 | 2 | 4 | 0 | 15[b] | 0 | — | 42 | 2 | |||
2014–15 | 29 | 1 | 4 | 0 | 7[a] | 0 | — | 40 | 1 | |||
2015–16 | 24 | 0 | 1 | 0 | 12[c] | 0 | — | 37 | 0 | |||
2016–17 | 30 | 0 | 2 | 0 | 6 | 0 | — | 38 | 0 | |||
2017–18 | 23 | 1 | 4 | 1 | 6 | 1 | — | 33 | 3 | |||
Tổng cộng | 140 | 4 | 20 | 1 | 48 | 1 | — | 218 | 6 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 228 | 10 | 25 | 1 | 48 | 1 | — | 301 | 12 |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Albania | ||
---|---|---|
Năm | Ra sân | Ghi bàn |
2014 | 3 | 0 |
2015 | 7 | 0 |
2016 | 8 | 0 |
2017 | 2 | 0 |
2018 | 7 | 1 |
2019 | 4 | 0 |
Tổng cộng | 31 | 1 |
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 7 tháng 9 năm 2018 | Elbasan Arena, Elbasan, Albania | Israel | 1–0 | 1–0 | UEFA Nations League 2018–19 |
Geburtsort:Basel
Granit, familja juaj vjen nga Kosova, po ju ku keni lindur? Në Zvicër, në Bazel kam lindur. Ashtu si Taulanti, vëllai im. Disa burime informacioni, duke përfshirë këtu edhe "Ëikipedia", kanë njoftuar se kam lindur në Kosovë, por kjo nuk është e vërtetë
Bei Granits Mutter beisst der albanische Fussballverband denn auch auf Granit: «Unsere Kinder sind hier geboren worden und zur Schule gegangen. Sie gehören in die Schweiz.»