Thuyết âm mưu là lời giải thích cho một sự kiện hoặc tình huống có thể gây ra âm mưu từ các nhóm ác ý và mang tính nhằm thao túng quyền lực, thường là động cơ chính trị[1][2] khi các giải thích khác có khả năng xảy ra hơn[3][4]. Thuật ngữ này có hàm ý tiêu cực, ngụ ý rằng việc thu hút một âm mưu dựa trên định kiến hoặc không đủ bằng chứng[5].
Các lý thuyết về âm mưu chống lại sự phản nghiệm và được củng cố bằng lý luận vòng tròn: cả bằng chứng chống lại âm mưu và việc không có bằng chứng cho nó đều được giải thích lại là bằng chứng về sự thật của nó,[5][6] theo đó âm mưu trở thành vấn đề của đức tin hơn là một điều điều đó có thể được chứng minh hoặc bác bỏ[7][8]. Nghiên cứu cho thấy rằng lý tưởngtheo chủ nghĩa âm mưu—tin vào các lý thuyết âm mưu—có thể có hại về mặt tâm lý hoặc bệnh lý[9][10] và nó có tương quan với phóng chiếu tâm lý, chứng hoang tưởng và chủ nghĩa Machiavelli[11]. Các nhà tâm lý học cho rằng việc tìm ra một âm mưu mà không có âm mưu thực sự nào, là một hiện tượng tâm thần được gọi là nhận thức kiểu ảo tưởng[12][13].
Người ngoài hành tinh từng đến thăm Trái Đất nhưng chính phủ Mỹ giấu biệt. Một số người theo thuyết "Các nhà du hành vũ trụ cổ đại" (Ancient Astronauts hay Ancient Aliens) tin rằng thần thánh trong các tôn giáo và tín ngưỡng trên thế giới chính là người ngoài hành tinh. Họ đến và khai sáng loài người rồi tự nhận là Chúa. Chẳng hạn như trong Cựu Ước có kể về tổ phụ Enoch chạy trên một chiếc xe có bánh phát ra lửa. Moise nhận được 10 điều răn từ một tiếng nói phát ra từ các đám mây.
Barkun đã xác định ba cách phân loại lý thuyết âm mưu:
Lý thuyết âm mưu theo hệ thống. Những lý thuyết này liên quan đến các mục tiêu rộng lớn bị cáo buộc như sự thống trị của một quốc gia hoặc sự thống trị thế giới. Theo Barkun, thuyết âm mưu dựa theo hệ thống tạo nên những lý thuyết như vậy thường đơn giản, với một số tổ chức hoặc hội kín bí ẩn. Ví dụ này bao gồm các lý thuyết âm mưu về người Do Thái, hội Tam Điểm, Chủ nghĩa Cộng sản, hoặc Giáo hội Công giáo.[35]
Các lý thuyết âm mưu theo sự kiện. Điều này đề cập đến các sự kiện có giới hạn và được xác định rõ ràng. Các ví dụ có thể bao gồm các giả thuyết về âm mưu như những điều liên quan đến vụ ám sát Kennedy, 9/11 và sự lây lan của AIDS.[35]
Các lý thuyết siêu âm mưu. Đối với Barkun, các lý thuyết như vậy liên kết với nhiều âm mưu bị cáo buộc với nhau theo thứ bậc. Ở đỉnh cao là một thế lực xa xôi nhưng đầy quyền lực sức mạnh. Những ví dụ được trích dẫn của ông là những ý tưởng của David Icke và Milton William Cooper.[35]
Matthew Gray đã lưu ý rằng các giả thuyết âm mưu là một đặc trưng phổ biến của nền văn hoá Ả Rập và thế giới chính trị.[36] Các biến thể bao gồm các âm mưu liên quan đến chủ nghĩa thực dân đô hộ, chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái, các siêu cường quốc, nguồn tài nguyên thiên nhiên năng lượng dầu mỏ, và cuộc chiến chống khủng bố, có thể được gọi là Chiến tranh chống lại Hồi giáo.[36] Ví dụ rõ ràng là cuốn sách The Protocols of the Elders of Zion nổi tiếng, là một tài liệu đánh lừa người đọc để rơi vào trạng thái lo lắng sợ hãi về kế hoạch thống trị nhân loại của người Do Thái, quyển sách The Protocols of the Elders of Zion được đọc, được phổ biến rộng rãi, và được quảng bá nhiều trong thế giới Hồi Giáo.[37][38][39] Roger Cohen đã gợi ý rằng sự phổ biến của những lý thuyết âm mưu trong thế giới Ả Rập là "nơi ẩn náu cuối cùng của những con người bất lực"[40]. Al-Mumin Said đã ghi nhận sự nguy hiểm của các lý thuyết âm mưu như vậy, vì những thuyết âm mưu này "gìn giữ chúng ta không chỉ phớt lờ sự thật mà còn tránh cả việc phải đối mặt với các lỗi lầm và các vấn đề của chính bản thân chúng ta"[41].
^Nefes, Turkay (2018). “Framing of a Conspiracy Theory: The Efendi Series”. Handbook of Conspiracy Theory and Contemporary Religion (bằng tiếng Anh). BRILL. tr. 407–422. ISBN978-90-04-38202-2. Conspiracy theories often function as popular conduits of ethno-religious hatred and conflict.
^Simelela, Nono; Venter, W. D. Francois; Pillay, Yogan; Barron, Peter (2015). “A Political and Social History of HIV in South Africa”. Current HIV/AIDS Reports. 12 (2): 256–261. doi:10.1007/s11904-015-0259-7. ISSN1548-3568. PMID25929959.
^Steven Stalinsky (ngày 6 tháng 5 năm 2004). “A Vast Conspiracy”. National Review. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2017.
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
Shion (紫苑シオン, lit. "Aster tataricus"?) là Thư ký thứ nhất của Rimuru Tempest và là giám đốc điều hành trong ban quản lý cấp cao của Liên đoàn Jura Tempest