Tiếng Nạp Tây/Naxi | |
---|---|
Naqxi geezheeq | |
Sử dụng tại | Trung Quốc |
Khu vực | Vân Nam và Tây Tạng |
Tổng số người nói | 350.000 (2000-2010) |
Dân tộc | Người Nạp Tây, người Ma Thoa |
Phân loại | Hán-Tạng
|
Hệ chữ viết | Chữ Ca Ba, hay chữ Đông Ba hợp với chữ Ca Ba, chữ Latinh |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-3 | cả hai:nxq – Naxinru – Narua (Nạp Vĩnh Ninh) |
Glottolog | naxi1245 Naxi[1]naxi1246 additional bibliography[2]yong1270 Narua[3] |
Tiếng Nạp Tây hay tiếng Naxi (tên tự gọi IPA: [nɑ˩ɕi˧]), cũng gọi là Nakhi, Nasi, Lomi, Moso, Mo-su, Ma Thoa, là một ngôn ngữ Hán-Tạng được nói bởi hơn 310.000 người sinh sống tại hoặc quanh thành phố Lệ Giang và Huyện tự trị dân tộc Nạp Tây Ngọc Long (Yùlóng Nàxīzú Zìzhìxiàn 玉龍納西族自治縣) của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Người Nạp Tây là dân tộc nói ngôn ngữ này, trên thực tế, số liệu thống kê số người nói tiếng Nạp Tây và số người Nạp Tây không khớp nhau: có những người nói tiếng Nạp Tây nhưng không khai nhận là "người Nạp Tây", và những người thuộc dân tộc "Nạp Tây" trên giấy tờ nhưng không hề biết ngôn ngữ này.[4]
Tiếng Nạp Tây theo nghĩa rộng (bao gồm cả Nạp/Ma Thoa) ban đầu được các nhà ngôn ngữ học Hòa Tức Nhân (和即仁, He Jiren) và Khương Trúc Nghi (姜竹仪, Jiang Zhuyi) chia thành 2 cụm chính là Tiếng Nạp Tây miền Tây và Tiếng Nạp Tây miền Đông.[5]
Tiếng Nạp Tây miền Tây (纳西语西部方言, Nạp Tây ngữ Tây bộ phương ngôn) là tương đối đồng nhất. Nó được nói chủ yếu tại huyện cũ Lệ Giang (hiện nay là quận Cổ Thành và huyện Ngọc Long), các huyện Trung Điện (Shangri-La), Duy Tây và Vĩnh Thắng. Các cụm dân cư nhỏ hơn nói tiếng Nạp Tây miền Tây được tìm thấy tại Hạc Khánh, Kiếm Xuyên, Lan Bình, Đức Khâm, Cống Sơn, Ninh Lạng (tại thôn Bá Bì Tượng 坝皮匠村, hương Vĩnh Ninh 永宁乡) Mộc Lý (ở Nga Á 俄亚), Diêm Biên (Đạo Tứ 道咀), và Tây Tạng (ở Mang Khang 芒康). Tổng cộng có trên 240.000 người nói. Tiếng Nạp Tây miền Tây bao gồm các phương ngữ Đại Nghiên, Lệ Giang Bá và Bảo Sơn Châu (He & Jiang 1985: 752).
Tiếng Nạp Tây miền Đông (纳西语东部方言, Nạp Tây ngữ Đông bộ phương ngôn) bao gồm vài loại phương ngôn không thể hiểu được lẫn nhau. Nó được nói chủ yếu tại các huyện Diêm Nguyên, Mộc Lý và Diêm Biên. Tiếng Nạp Tây miền Đông cũng được các cụm dân cư nhỏ tại các huyện Vĩnh Thắng (ở Chương Tử Đán 獐子旦), Duy Tây (ở Kì Tông 其宗[6]), và Lệ Giang (ở Hải Long 海龙 và Phụng Khoa 奉科[7]). Tổng cộng có trên 40.000 người nói (He & Jiang 1985: 754).
Bảng chữ cái ở đây là bính âm 1957.
Môi | Răng/ chân răng |
Quặt lưỡi | Vòm | Ngạc mềm | Thanh hầu | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tắc | vô thanh | /p/ b | /t/ d | /c/ ? | /k/ g | /ʔ/ | |
bật hơi | /pʰ/ p | /tʰ/ t | /cʰ/ ? | /kʰ/ k | |||
hữu thanh | /b/ bb | /d/ dd | /ɟ/ ? | /ɡ/ gg | |||
mũi hóa trước | /ᵐb/ nb | /ⁿd/ nd | /ᶮɟ/ ? | /ᵑɡ/ mg | |||
Tắc xát | vô thanh | /ts/ z | /tʂ/ zh | /tɕ/ j | |||
bật hơi | /tsʰ/ c | /tʂʰ/ ch | /tɕʰ/ q | ||||
hữu thanh | /dz/ zz | /dʐ/ rh | /dʑ/ jj | ||||
mũi hóa trước | /ⁿdz/ nz | /ⁿdʐ/ nr | /ⁿdʑ/ nj | ||||
Xát | vô thanh | /f/ f | /s/ s | /ʂ/ sh | /ɕ/ x | /x/ h | |
hữu thanh | /v/ v | /z/ ss | /ʐ/ r | /ʑ/ y | /ɣ/ w | ||
Mũi | /m/ m | /n/ n | /ɲ/ ni | /ŋ/ ng | |||
Rung | /r/ ? | ||||||
Tiếp cận | /w/ u, /ɥ/ iu | /l/ l | /j/ i |
Trong phương ngữ Lệ Giang, có 9 nguyên âm cũng như một phụ âm âm tiết hóa là /v̩/): /i, e, æ, ɑ, y, ɨ, ə, o, u/, viết là i, ei, ai, a, iu, ee, e, o, u. Còn một âm /əɹ/, viết là er.