Người Nạp Tây (Naxi, Naqxi, Na-khi, Nashi, Nahi, Moxiayi, Mosha) | |
---|---|
Tổng dân số | |
326.000 | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Trung Quốc (Tứ Xuyên · Vân Nam) | |
Ngôn ngữ | |
Nạp Tây | |
Tôn giáo | |
Đông Ba giáo, Phật giáo Tây Tạng, Đạo giáo | |
Sắc tộc có liên quan | |
Tạng, Khương, Ma Thoa |
Người Nạp Tây (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay người Naxi hoặc người Nakhi (theo tên tự gọi: ¹na²khi), hay là một dân tộc cư trú chủ yếu ở đông nam vùng núi Himalaya ở tây bắc Vân Nam, cũng như tây nam Tứ Xuyên[1]. Họ là một trong 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Người Nạp Tây có nguồn gốc từ Tây Tạng, và cho đến gần đây vẫn duy trì các mối liên hệ giao thương mối liền với Lhasa và Ấn Độ. Theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì dân tộc này còn bao gồm cả người Ma Thoa. Tuy nhiên, mặc dù được coi là có nguồn gốc tương tự và giống nhau với những đặc điểm chung về ngôn ngữ, hai nhóm hiện nay có văn hóa khác biệt. Người Ma Thoa giữ nhiều nét của văn hóa Tây Tạng, trong khi đó người Nạp Tây chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Hán, dẫn đến pha trộn văn hóa của cả người Hán lẫn người Tạng, đặc biệt là trong âm nhạc.
Người Nạp Tây được cho là có nguồn gốc từ những người Khương sống du cư, một dân tộc định cư trên cao nguyên Tây Tạng vào thời cổ [2][3]. Trong thời nhà Tùy và nhà Đường, người Nạp Tây được gọi là Ma Sa Di (摩沙夷) hay Ma Ta Man (磨些蛮). Chỉ sau khi CHNDTH được thành lập, họ mới được gọi chính thức là Nạp Tây.
Nạp Tây cổ nhạc (tiếng Trung: 纳西古乐) bao gồm ba phần: Bạch sa tế nhạc (tiếng Trung: 白沙细乐; bính âm: Báishā xì yuè), Đỗng kinh âm nhạc (tiếng Trung: 洞经音乐; bính âm: Dòng jīng yīnyuè) và Hoàng kinh âm nhạc (tiếng Trung: 皇经音乐; bính âm: Huáng jīng yīnyuè). Do phương pháp kế thừa nghiêm ngặt, phải được truyền từ thầy sang nghề hoặc cha truyền con nối. Dòng nhạc này có lịch sử lâu đời và đơn giản, thanh lịch, thông qua truyền dạy bằng miệng bởi công xích phổ (工尺谱). Vì vậy nó đã tồn tại cho đến ngày nay. Đây là một trong những dàn nhạc cổ điển quy mô lớn quan trọng nhất ở Trung Quốc. Hiện nay chỉ còn nhiều nghệ nhân lâu năm phục dựng.
Các nhạc cụ bao gồm đàn tỳ bà, cổ tranh, dàn chiêng mây (vân la), kèn sậy (芦管), đàn nhị, các loại sáo, chũm chọe, đàn tam thập lục,...Được gọi là "Ba báu vật" quý hiếm. Năm 1962, 3 thể loại nhạc của cổ nhạc Nạp Tây đã được Viện Nghiên cứu Âm nhạc thuộc Học viện Nghệ thuật Quốc gia Trung Quốc, Đoàn Ca múa và Nghệ thuật dân gian Vân Nam và các nhạc sĩ của huyện Lệ Giang khai quật và phân loại. Nó được gọi là "hóa thạch âm nhạc sống".
Về mặt lịch sử, cổ nhạc Nạp Tây cho là có nguồn gốc từ nhạc cổ tỉnh Tây An. Tuy nhiên, nó được pha trộn từ các tác phẩm thơ và phong cách âm nhạc từ triều đại nhà Đường (618-907) và nhà Tống (960-1279), cũng như một số ảnh hưởng của Tây Tạng, đã phát triển phong cách độc đáo của nó.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Người Nạp Tây. |