Toàn Linh được sinh ra vào giờ Dần, ngày 8 tháng 11 (âm lịch) năm Gia Khánh thứ 22 (1817), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai trưởng của Lễ Thân vương Tích Xuân (錫春) – con trai trưởng của Lễ An Thân vương Lân Chỉ. Mẹ ông là Trắc Phúc tấn Vương thị (王氏).
Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), tháng 2, ông được phong làm Phụng ân Tướng quân. Năm Đạo Quang nguyên niên (1821), tổ phụ của ông qua đời, ông được thế tập tước vị Lễ Thân vương đời thứ 11. Lúc ấy phụ thân ông cũng được truy phong làm Lễ Thân vương. Năm thứ 19 (1839), ông được phong làm Tổng tộc trưởng của Tương Hồng kỳ.[a]
Năm thứ 30 (1850), ngày 28 tháng 3 (âm lịch), giờ Mùi, ông qua đời, thọ 34 tuổi, được truy thụy Lễ Thận Thân vương (禮慎親王).
Nguyên phối: Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (博爾濟吉特氏), con gái của Khách Nhĩ Thấm Tát Khắc Đa La Quận vương Hòa Thạc Ngạch phò Sách Đặc Nạp Mộc Đa Bố Tề (索特納木多布齊) – hôn phu của Hòa Thạc Trang Kính Công chúa.
Kế thất: Tha Tháp Lạt thị (他塔喇氏), con gái của Tử tước Phúc Châu Long A (福珠隆阿).
Tam kế thất: Trương Giai thị (張佳氏), con gái của Trương Kiệm (張儉).
Dụ Côn (裕昆; 1835 – 1835), mẹ là Thứ Phúc tấn Lưu thị. Chết yểu.
Thế Trạch (世澤; 1843 – 1848), mẹ là Kế Phúc tấn Tha Tháp Lạt thị. Chết yểu.
Thế Đạc (世鐸; 1843 – 1914), mẹ là Tam kế Phúc tấn Trương Giai thị. Năm 1850 được thế tập tước vị Lễ Thân vương (禮親王). Sau khi qua đời được truy thụy Lễ Khác Thân vương (禮恪親王). Có một con trai.
Thế Hoa (世華; 1845 – 1853), mẹ là Thứ Phúc tấn Lưu thị. Chết yểu.
^Những năm Ung Chính, kỳ tịch của Tông thất (Cận chi) được chia theo "Tả dực" (gồm Tương Hoàng, Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Lam) cùng "Hữu dực". Mỗi "dực" sẽ được chia làm 20 "Tộc" (như Tả dực có Tương Hoàng 1 tộc, Chính Bạch 3 tộc, Tương Bạch 3 tộc, Chính Lam 13 tộc). Vậy tổng cộng là 40 tộc với 40 Tộc trưởng. Đến những năm Càn Long, tất cả 40 tộc này được xếp vào "Viễn chi", thiết lập 16 "Tổng tộc trưởng". Mỗi Tổng tộc trưởng đều do đích thân Hoàng Đế bổ nhiệm, có thể không thuộc kỳ mình quản lý.