Toremifene được phê duyệt để điều trị ung thư vú di căn ở phụ nữ mãn kinh với khối udương tính với thụ thể estrogen hoặc không rõ tình trạng.[4][5] Đây là sử dụng duy nhất được phê duyệt tại Hoa Kỳ.[4] Nó cho thấy hiệu quả tương đương với tamoxifen cho chỉ định này. Toremifene đã được tìm thấy là có hiệu quả trong điều trị đau vú và có thể là một loại thuốc tốt hơn tamoxifen cho chỉ định này.[14] Toremifene đã được báo cáo để cải thiện đáng kể các triệu chứng của gynecomastia ở nam giới.[15]
Toremifene là một chất nền của CYP3A4, một cytochrome P450enzyme, và do đó các loại thuốc gây ra hoặc ức chế enzym này tương ứng có thể làm giảm hoặc mức tăng toremifene trong cơ thể.[2]
Sinh khả dụng của toremifene chưa được xác định chính xác nhưng được biết là tốt. Thuốc liên kết hơn 99% với protein huyết tương. Nó được chuyển hóa ở gan chủ yếu bởi CYP3A4 và sau đó trải qua quá trình hydroxyl hóa thứ cấp. Các chất chuyển hóa của toremifene bao gồm N-desmethyltoremifene và 4-hydroxytoremifene và ít hoạt động hơn chính toremifene.[22]Ospemifene (deaminohydroxytoremifene) cũng là một chất chuyển hóa chính của toremifene.[4] Toremifene và 4-hydroxytoremifene có thời gian bán hủy rất dài từ 5 đến 6 ngày, trong khi N-desmethyltoremifene có thời gian bán hủy dài hơn từ 6 đến 21 ngày và ospemifene có thời gian bán hủy là 4 ngày. Thời gian bán hủy dài của toremifene và các chất chuyển hóa của nó có thể được quy cho sự tuần hoàn ruột gan.[2] Toremifene được loại bỏ 70% trong phân, dưới dạng các chất chuyển hóa.
Không giống như tamoxifen, toremifene không phải là tiền chất và không phụ thuộc vào quá trình trao đổi chất bởi CYP2D6 cho hoạt tính sinh học; do đó, có thể thích hợp hơn với tamoxifen trong các chất chuyển hóa kém CYP2D6 hoặc ở những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế CYP2D6.[23]
Toremifene được giới thiệu ở Hoa Kỳ vào năm 1997.[10][11] Nó là chất chống ung thư đầu tiên được giới thiệu ở đất nước này kể từ tamoxifen năm 1978.[12]
Năm 2007, công ty dược phẩm GTx, Inc đã tiến hành hai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 khác nhau; Đầu tiên, một thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn then chốt để điều trị các tác dụng phụ nghiêm trọng của liệu pháp androgen (ADT) (đặc biệt là gãy đốt sống/cột sống và bốc hỏa, hồ sơ lipid và gynecomastia) đối với ung thư tuyến tiền liệt tiến triển và giai đoạn thứ hai, giai đoạn III thử nghiệm để ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt ở những người đàn ông có nguy cơ cao mắc u tuyến tiền liệt cao, hoặc PIN. Kết quả của các thử nghiệm này dự kiến vào quý đầu năm 2008 [30]
Một NDA cho ứng dụng đầu tiên (giảm tác dụng phụ ADT của ung thư tuyến tiền liệt) đã được đệ trình vào tháng 2 năm 2009,[31] và vào tháng 10 năm 2009, FDA cho biết họ sẽ cần thêm dữ liệu lâm sàng, ví dụ như một thử nghiệm pha III khác.[32]
Cuối cùng, sự phát triển đã bị ngừng lại và toremifene không bao giờ được bán trên thị trường cho các biến chứng liên quan đến ADT hoặc điều trị hoặc phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt.[33]
Một thử nghiệm lâm sàng mù đôi, kiểm soát giả dược, ngẫu nhiên, 3 năm về toremifene đã được tiến hành bằng cách sử dụng mẫu 1.260 nam giới. Đối tượng có độ tuổi trung bình là 64 tuổi và được chẩn đoán mắc u tuyến tiền liệt tuyến tiền liệt cao cấp (HGPIN), được coi là tiền ung thư, mặc dù Thompson và Leach cảm thấy mã PIN cấp thấp cũng có thể được coi là tiền ung thư.[34]
Nhà tài trợ, GTx, người thiết kế và quản lý nghiên cứu, đã tìm thấy 34,7% giả dược và 32,3% nhóm toremifene có các sự kiện ung thư. Không có sự khác biệt được tìm thấy trong thang điểm Glory của một trong hai nhóm.[35]
Các nghiên cứu trên chuột trước đây sử dụng adenocarcinoma biến đổi gen của chuột tuyến tiền liệt chuột (TRAMP) cho thấy toremifene ngăn ngừa khối u sờ thấy ở 60% động vật. Nghiên cứu này đã sử dụng toremifene như một phương pháp dự phòng sớm, khác biệt với nghiên cứu ở giai đoạn III của con người.[36]
^Ellmén J, Hakulinen P, Partanen A, Hayes DF (tháng 11 năm 2003). “Estrogenic effects of toremifene and tamoxifen in postmenopausal breast cancer patients”. Breast Cancer Res. Treat. 82 (2): 103–11. doi:10.1023/B:BREA.0000003957.54851.11. PMID14692654.
^Tsourdi E, Kourtis A, Farmakiotis D, Katsikis I, Salmas M, Panidis D (tháng 4 năm 2009). “The effect of selective estrogen receptor modulator administration on the hypothalamic-pituitary-testicular axis in men with idiopathic oligozoospermia”. Fertil. Steril. 91 (4 Suppl): 1427–30. doi:10.1016/j.fertnstert.2008.06.002. PMID18692782.
^Price N, Sartor O, Hutson T, Mariani S. Role of 5a-reductase inhibitors and selective estrogen receptor modulators as potential chemopreventive agents for prostate cancer. Clin Prostate Cancer 2005;3:211-4. PMID15882476
^Taneja, S. S., Morton, R., Barnette, G., Sieber, P., Hancock, M. L., and Steiner, M., Prostate cancer diagnosis among men with isolated high-grade intraepithelial neoplasia enrolled onto a 3-year prospective phase III clinical trial of oral toremifene J Clin Oncol, 2013;31:523-9. https://ascopubs.org/doi/abs/10.1200/JCO.2012.41.7634=[liên kết hỏng] Retrieved ngày 31 tháng 7 năm 2019
^Raghow, S., Hooshdaran, M. Z., Katiyar, S., and Steiner, M. S., Toremifene prevents prostate cancer in the transgenic adenocarcinoma of mouse prostate model. Cancer Research 2002;62:1370-6. http://cancerres.aacrjournals.org/content/62/5/1370=Lưu trữ 2022-02-17 tại Wayback Machine Retrieved ngày 31 tháng 7 năm 2019
Taneja SS, Smith MR, Dalton JT, Raghow S, Barnette G, Steiner M, Veverka KA (2006). “Toremifene--a promising therapy for the prevention of prostate cancer and complications of androgen deprivation therapy”. Expert Opin Investig Drugs. 15 (3): 293–305. doi:10.1517/13543784.15.3.293. PMID16503765.
Zhou WB, Ding Q, Chen L, Liu XA, Wang S (2011). “Toremifene is an effective and safe alternative to tamoxifen in adjuvant endocrine therapy for breast cancer: results of four randomized trials”. Breast Cancer Res. Treat. 128 (3): 625–31. doi:10.1007/s10549-011-1556-5. PMID21553116.
Gennari L, Merlotti D, Stolakis K, Nuti R (2012). “Pharmacokinetic evaluation of toremifene and its clinical implications for the treatment of osteoporosis”. Expert Opin Drug Metab Toxicol. 8 (4): 505–13. doi:10.1517/17425255.2012.665873. PMID22356442.
Mao C, Yang ZY, He BF, Liu S, Zhou JH, Luo RC, Chen Q, Tang JL (2012). “Toremifene versus tamoxifen for advanced breast cancer”. Cochrane Database Syst Rev (7): CD008926. doi:10.1002/14651858.CD008926.pub2. PMID22786516.
Vogel CL, Johnston MA, Capers C, Braccia D (2014). “Toremifene for breast cancer: a review of 20 years of data”. Clin. Breast Cancer. 14 (1): 1–9. doi:10.1016/j.clbc.2013.10.014. PMID24439786.
Một công nghệ mới xuất hiện có thể giúp cuộc sống của loài người dần trở nên dễ dàng hơn, nhưng đôi khi, nó cũng mang theo những thử thách, những đợt khủng hoảng mà chúng ta phải đương đầu