Trung Papua

Trung Papua
—  Tỉnh có vị thế đặc biệt  —
Tỉnh Trung Papua
Provinsi Papua Tengah
   Trung Papua tại    Indonesia
   Trung Papua tại    Indonesia
OpenStreetMap
Map
Trung Papua trên bản đồ Thế giới
Trung Papua
Trung Papua
sửa dữ liệu
Thủ phủNabire
Thành phố lớn nhấtTimika
Chính quyền
 • Thành phầnCentral Papua Provincial Government
Diện tích[1]
 • Tổng cộng66.130,49 km2 (2,553,312 mi2)
Dân số (2021)[2]
 • Tổng cộng1.408.981
 • Mật độ0,21/km2 (0,55/mi2)
Ngôn ngữ
 • Ngôn ngữ chính thứcIndonesia
 • Các ngôn ngữ bản địa của Trung Papua[3]Auye, Damal, Dani, Ekari, Keuw, Kuri, Lani, Moni, Nduga, Wano, Wolani, Yaur, Yeresiam..
 • Ngôn ngữ khácJava, Mã Lai Papua..
Nhân khẩu
 • Tôn giáoCơ Đốc giáo 87,74%
Tin Lành 68,59%
Công giáo 19,01%
Hồi giáo 12,26%
Ấn Độ giáo 0,07%
Phật giáo 0,03%
Khác 0,04%[4]
 • Dân tộc[3]Damal, Dani, Ekari, Lani, Wolani, Yaur (bản địa), Java
Múi giờGiờ Đông Indonesia (UTC+9)
Mã ISO 3166ID-PT sửa dữ liệu

Tỉnh Trung Papua (tiếng Indonesia: Provinsi Papua Tengah) là một tỉnh của Indonesia nằm tại vùng Tây New Guinea.[5][6] Tỉnh được thành lập chính thức vào ngày 11 tháng 11 năm 2022 từ tám huyện từng thuộc tỉnh Papua. Trung Papua có diện tích 66.130,49 km2 và dân số ước tính đạt 1.409.000 người vào giữa năm 2021.[7] Trung Papua tiếp giáp với tỉnh Tây Papua ở phía tây, Papua ở phía bắc, và Cao nguyên PapuaNam Papua ở phía đông. Thủ phủ được xác định là Nabire, đây là thị trấn lớn thứ hai trong tỉnh (sau Timika).

Ranh giới của tỉnh gần như đi theo vùng văn hóa Mee Pago và một phần của Saireri.[8]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi dự luật thành lập tỉnh được thông qua vào ngày 30 tháng 6 năm 2022,[9] tranh cãi liên quan đến thủ phủ của tỉnh mới đã dẫn đến các cuộc biểu tình lớn tại Timika. Cư dân của thị trấn lập luận rằng thủ phủ của tỉnh nên ở Timika thay vì Nabire, do những đóng góp của Timika cho nền kinh tế của tỉnh nhờ hiện diện của công ty khai mỏ Freeport-McMoRan trong huyện của họ.[10] Những người biểu tình cũng lập luận rằng nỗ lực của người dân địa phương trong 20 năm qua nhằm hỗ trợ thành lập tỉnh Trung Papua luôn muốn lấy Timika làm thủ phủ chứ không phải Nabire.[10][11] Những người biểu tình cũng đe dọa dùng vũ lực để đóng cửa mỏ Freeport nếu yêu cầu trở thành thủ phủ tỉnh mới của họ không được lắng nghe.[10][12] Tuy nhiên, quan điểm ủng hộ Nabire lập luận rằng Nabire phù hợp hơn với tư cách là thủ phủ vì thị trấn không có sự can thiệp từ công ty khai mỏ vào sự phát triển và thực tế là Nabire có tỷ lệ người Papua bản địa trong dân số cao hơn so với Timika.[13][14] Hơn nữa, sáu trong số tám huyện của khu vực, là Nabire, Dogiyai, Deiyai, Paniai, Intan Jaya và Puncak Jaya ưa chuộng Nabire là thủ phủ hơn vì giao thông thuận lợi hơn.[15] Xung đột xã hội giữa cư dân Nabire và Timika liên quan đến vị thế thủ phủ mới của tỉnh được Linh mục Dora Balubun, đại diện của công nghị khu vực GKI Papua, mô tả là tác dụng phụ nguy hiểm của việc thành lập tỉnh mới.[16][11] Để ủng hộ việc thành lập tỉnh mới, bộ tộc Wate giao cho chính phủ 75 ha đất để xây dựng các tòa nhà chính phủ.[17]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]

Dân tộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Nabire là nơi sinh sống của các bộ tộc ven biển thuộc lãnh thổ phong tục Saireri, bao gồm người Yaur, Wate, Mora, Umari, Napan và Yerisiam, cũng như các bộ tộc ở khu vực miền núi được nhóm trong lãnh thổ phong tục Mee Pago, cụ thể là Mee và Auye.[18] Phần trung tâm của Trung Papua là dãy núi Jayawijaya, đây là nơi sinh sống của các bộ tộc như người Mee, Moni, Amungme và họ vẫn duy trì sinh hoạt truyền thống.[19] Phần phía nam của Trung Papua là huyện Mimika thuộc dạng đất đầm lầy và phần lớn là nơi sinh sống của người Kamoro.[20]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn giáo tại Trung Papua (2022)

  Tin Lành (68.59%)
  Công giáo (19.01%)
  Hồi giáo (12.26%)
  Ấn Độ giáo (0.07%)
  Phật giáo (0.03%)
  Khác (0.04%)

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vực hiện nay là Trung Papua ban đầu bao gồm bốn huyện - Mimika, Nabire, Paniai và Puncak Jaya. Hai huyện mới được thành lập vào ngày 4 tháng 1 năm 2008 - Dogiyai từ một phần của Nabire, và Puncak từ một phần của Puncak Jaya. Hai huyện khác được thành lập vào ngày 29 tháng 10 năm 2008 - Deiyai ​​và Intan Jaya, cả hai đều từng là một phần của Paniai. Tỉnh mới bao gồm tám huyện (và không có thành phố hành chính), được liệt kê dưới đây với các diện tích và dân số của chúng theo Điều tra dân số năm 2020[21] và theo ước tính chính thức vào giữa năm 2021.[22] Bảng này cũng bao gồm các thủ phủ của huyện và danh sách các kecamatan trong mỗi huyện.

Huyện Thủ phủ Khu Diện tích
in km2
Dân số
điều tra
2020
Dân số
ước tính
2021
HDI (2020)
1 Deiyai Waghete Bowobado, Kapiraya, Tigi (Waghete), Tigi Barat, Tigi Timur 1.012,67 99.091 100.466 0,495 (thấp)
2 Dogiyai Kigamani Dogiyai, Kamu (Kigimani), Kamu Selatan, Kamu Timur, Kamu Utara,
Mapia, Mapia Barat, Mapia Tengah, Piyaiye, Sukikai Selatan
7.052,92 116.206 117.808 0,548 (thấp)
3 Intan Jaya Sugapa Agisiga, Biandoga, Hitadipa, Homeyo, Sugapa, Tomosiga, Ugimba, Wandai 3.922,02 135.043 136.916 0,478 (thấp)
4 Mimika Timika Agimuga, Alama, Amar, Hoya, Iwaka, Jila, Jita, Kuala Kencana, Kwamki Narama,
Mimika Barat, Mimika Barat Jauh, Mimika Barat Tengah, Mimika Baru (Timika),
Mimika Tengah, Mimika Timur, Mimika Timur Jauh, Tembagapura, Wania
21.693,51 311.969 316.295 0,742 (cao)
5 Nabire Nabire Dipa, Makimi, Menou, Moora, Nabire, Nabire Barat, Napan, Siriwo,
Teluk Kimi, Teluk Umar, Uwapa, Wanggar, Wapoga, Yaro, Yaur
12.010,65 169.136 170.914 0,688

(trung bình)

6 Paniai Enarotali Aradide, Aweida, Baya Biru, Bibida, Bogabaida, Deiyai Miyo, Dogomo, Dumadama,
Ekadide, Kebo, Muye, Nakama, Paniai Barat, Paniai Timur (Enarotali), Pugo Dagi,
Siriwo, Teluk Deya, Topiyai, Wegee Bino, Wegee Muka, Yagai, Yatamo, Youtadi
6.525,25 220.410 223.467 0,563

(trung bình)

7 Puncak Ilaga Agandugume, Amungkalpia, Beoga, Beoga Barat, Beoga Timur, Bina, Dervos, Doufo,
Erelmakawia, Gome, Gome Utara, Ilaga, Ilaga Utara, Kembru, Lambewi, Mabugi,
Mage'abume, Ogamanim, Omukia, Oneri, Pogoma, Sinak, Sinak Barat, Wangbe, Yugumuak
7.396,47 114.741 115.474 0,430 (thấp)
8 Puncak Jaya Mulia Dagai, Dokome, Fawi, Gubume, Gurage, Ilamburawi, Ilu, Irimuli, Kalome, Kiyage,
Lumo, Mewoluk, Molanikime, Muara, Mulia, Nioga, Nume, Pagaleme, Taganombak,
Tingginambut, Torere, Waegi, Wanwi, Yambi, Yamo, Yamoneri
6.515,00 224.527 227.641 0,484 (thấp)
Tổng cộng 66.130,49 1.391.123 1.408.981

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Setyaningrum, Puspasari (2 tháng 7 năm 2022). “Profil Provinsi Papua Tengah”. KOMPAS.com. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2022.
  2. ^ Badan Pusat Statistik, Jakarta, 2022.
  3. ^ a b “Mee Pago” (bằng tiếng Indonesia). Jakarta: Badan Penghubung Daerah Provinsi Papua, Republik Indonesia [Regional Liaison Agency of Papua, Republic of Indonesia]. tháng 7 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2023.
  4. ^ “Visualisasi Data Kependudukan - Kementerian Dalam Negeri 2022” (Visual). www.dukcapil.kemendagri.go.id (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2022.
  5. ^ “DPR Sahkan RUU DOB, Papua Kini Punya 3 Provinsi Baru: Papua Selatan, Papua Tengah Dan Papua Pegunungan”. suara.com (bằng tiếng Indonesia). 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  6. ^ Utama, Felldy (30 tháng 6 năm 2022). “Usai RUU DOB Papua Disahkan, Ini Perintah Mendagri Buat Bupati Papua Selatan : Okezone Nasional”. Nasional Okezone (bằng tiếng Indonesia). iNews. Jakarta: Okezone. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  7. ^ Badan Pusat Statistik, Jakarta, 2022.
  8. ^ Setyaningrum, Puspasari biên tập (2 tháng 7 năm 2022). “Profil Provinsi Papua Tengah Halaman all”. KOMPAS.com (bằng tiếng Indonesia). Kompas Cyber Media. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2022.
  9. ^ Sutrisno, Eri (15 tháng 7 năm 2022). “Indonesia.go.id - Inilah Tiga Provinsi Baru di Papua”. indonesia.go.id (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  10. ^ a b c Aditra, Irsul Panca (30 tháng 6 năm 2022). Pratiwi, Priska Sari (biên tập). “Massa Demo di Gedung DPRD, Tuntut Timika Jadi Ibu Kota Provinsi Papua Tengah”. KOMPAS.com (bằng tiếng Indonesia). Timika: Kompas Cyber Media. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  11. ^ a b “DPR sahkan tiga RUU provinsi baru Papua, tapi 'perpecahan masyarakat adat sudah terjadi'. BBC News Indonesia (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  12. ^ “Permasalahan yang Mengiringi Pengesahan Pemekaran Provinsi Papua Harus Segera Dibereskan”. VOI - Waktunya Merevolusi Pemberitaan (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  13. ^ “Tokoh Masyarakat: Ini Soal Pemerataan Pembangunan, Ibu Kota PPT Tidak ada Intervensi Freeport”. seputarpapua.com (bằng tiếng Indonesia). Timika: seputarpapua. 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  14. ^ Makawaru (29 tháng 6 năm 2022). “Mesak Magai Sebut Nabire Wajar jadi Ibukota Papua Tengah”. Papua Inside (bằng tiếng Indonesia). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  15. ^ "Ibarat Mau Berburu Babi Hutan, Dapat Tikus Tanah pun Harus Disyukuri". Cepos Online (bằng tiếng Indonesia). 30 tháng 6 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
  16. ^ Balubun, Piet (25 tháng 6 năm 2022). “Timika dan Nabire Saling Rebut Ibukota Provinsi Papua Tengah”. Koreri Trans Media (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  17. ^ “Suku Wate di Nabire hibahkan tanah 75 hektare untuk pembangunan kantor Gubernur Papua Tengah”. Jubi (bằng tiếng Indonesia). 25 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022.
  18. ^ Suroso (21 tháng 7 năm 2022). “Menyikapi 6 Suku Pesisir dan Kepulauan Mencari Identitas Adat Mereka di Nabire”. papuaposnabire.com (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  19. ^ “PROFIL WILAYAH ADAT MEE PAGO”. papua.go.id (bằng tiếng Indonesia). Pemerintah Provinsi Papua. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2022.
  20. ^ “Kokonao, Keindahan Alam Papua yang Terlupakan”. travel.detik.com (bằng tiếng Indonesia). 1 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2022.
  21. ^ Badan Pusat Statistik, Jakarta, 2021.
  22. ^ Badan Pusat Statistik, Jakarta, 2022.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan