Vĩnh Huệ 永㥣 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thân vương nhà Thanh | |||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 5 tháng 2, 1729 | ||||||||||||
Mất | 28 tháng 3, 1790 | (61 tuổi)||||||||||||
Phối ngẫu | xem văn bản | ||||||||||||
Hậu duệ | xem văn bản | ||||||||||||
| |||||||||||||
Tước hiệu | Hòa Thạc Lễ Thân vương (和硕禮親王) | ||||||||||||
Hoàng tộc | Ái Tân Giác La | ||||||||||||
Thân phụ | Khang Tu Thân vương Sùng An | ||||||||||||
Thân mẫu | Trắc Phúc tấn Y Nhĩ Căn Giác La thị |
Vĩnh Huệ (tiếng Trung: 永㥣; 5 tháng 2 năm 1729 - 28 tháng 3 năm 1790), tự Tung Sơn (嵩山),[1] Loan Sơn (鸾山),[2] hiệu Duyên Phân cư sĩ (延芬居士),[3] thất danh[a] Thần Thanh thất (神清室)[2] là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết mạo tử vương.
Vĩnh Huệ sinh vào giờ Mùi, ngày 8 tháng giêng (âm lịch) năm Ung Chính thứ 7 (1729), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai thứ ba của Khang Tu Thân vương Sùng An, mẹ ông là Trắc Phúc tấn Y Nhĩ Căn Giác La thị.[4]
Năm Càn Long thứ 14 (1749), tháng 12, ông được phong tước Nhị đẳng Trấn quốc Tướng quân (二等鎭國將軍)[1]. Ông là một người giỏi về thi từ và thư pháp. Ông tôn sùng văn thơ nhà Đường và thư pháp của Triệu Mạnh Phủ.[5] Năm thứ 55 (1790), ngày 13 tháng 2 (âm lịch), giờ Thìn, ông qua đời, thọ 62 tuổi.
Năm Gia Khánh thứ 21 (1817), tháng 6, do con trai ông là Lân Chỉ được thừa kế đại tông, nên ông được truy phong làm Lễ Thân vương (禮親王).[6]