Zingiber montanum

Zingiber montanum
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Monocots
(không phân hạng)Commelinids
Bộ (ordo)Zingiberales
Họ (familia)Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia)Zingiberoideae
Tông (tribus)Zingibereae
Chi (genus)Zingiber
Loài (species)Z. montanum
Danh pháp hai phần
Zingiber montanum
(J.König) Link ex A.Dietr., 1831[1]
Danh pháp đồng nghĩa
  • Amomum montanum J.König, 1783[2]
  • Jaegera montana (J.König) Giseke, 1792[3]
  • Zingiber newmanii Theilade & Mood, 1999[4]
  • Zingiber nudicarpum D.Fang, 1982[5]
  • Zingiber peninsulare Theilade, 1999[6]

Zingiber montanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng.

Một trong các tên gọi trong tiếng Trung là 光果姜 (quang quả khương), nghĩa đen là gừng quả nhẵn bóng.[5][7]

Lịch sử phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này được Johann Gerhard König mô tả năm 1783 dưới danh pháp Amomum montanum.[2] Năm 1792, Paul Dietrich Giseke mô tả chi Jaegera với loài duy nhất là Jaegera montana với dẫn chiếu tới A. montanum của König.[3]

Dựa theo mô tả trước đó cho Zingiber montanum của Johann Heinrich Friedrich Link, năm 1831 Albert Gottfried Dietrich chuyển A. montanum sang chi Zingiber.[1][8]

Baker (1892) và Schumann (1904) cho rằng Z. cassumunar (= Z. purpureum) có các danh pháp đồng nghĩa là Z. montanum / A. montanum.[9][10] Tuy nhiên, một số tác giả khác lại coi Z. purpureum / Z. cassumunar là khác biệt với Z. montanum.[11]

Năm 1998, Theilade định nghĩa lại Z. montanum như là danh pháp chính thức của loài có các danh pháp đồng nghĩa bao gồm A. montanum König. ex Retz., 1783, Z. purpureum Roscoe, 1807, Z. cassumunar Roxb., 1810,[12] do mẫu Koenig J.G. s. n. thu thập tại Phuket, Thái Lan mà trước đây tưởng đã mất trên biển nhưng khi đó được phát hiện là lưu giữ tại Đại học Copenhagen (C) và nó từng được coi là holotype của Amomum montanum J.Koenig, 1783,[13] mặc dù trong mô tả của König ghi rất rõ là lá bắc màu đỏ thắm và cánh môi màu máu lốm đốm trắng (Amomum montanum strobilo coccineo ... Bracteae integerrimae, leviter striatae, subcoriaceae, coccineae .... Lacinia quarta ... maculis lineolisque sanguineis et albis marmoris instar picta....),[2] khác với mẫu vật này; trong khi mẫu vật thì giống với Z. pupureum. Tuy nhiên, điều này đã được công nhận cho tới gần đây,[11][14] mặc dù trong mô tả của Z. montanum với Z. purpureum / Z. cassumunar có nhiều điểm khác biệt. Như thế, trong khoảng thời gian 20 năm gần đây người ta cho rằng Z. purpureum là đồng nghĩa của Z. montanum.[8][11]

Năm 2019, sau khi xem xét lịch sử các tên gọi, các mẫu vật có liên quan, Lin Bai et al. cho rằng mẫu Koenig J.G. s. n. không phải là mẫu gốc và nó là của Z. purpureum. Các tác giả đã tách hai loài này ra khỏi nhau, đồng thời xác định lại mẫu neotype cho A. montanum.[15]

Mẫu định danh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • A. montanum: Bai L., Harwood B. & Maslin B.R.. BLK-075; thu thập ngày 25 tháng 4 năm 2018, cao độ 146 m, tọa độ 8°1′41″B 98°22′42″Đ / 8,02806°B 98,37833°Đ / 8.02806; 98.37833, Vườn quốc gia Khao Phra Thaeo, tỉnh Phukhet, Thái Lan. Mẫu neotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia, Bảo tồn Động vật Hoang dã và Thực vật tại Chatuchak, Băng Cốc (BKF), các isoneotype lưu giữ tại Đại học Copenhagen (C) và Viện Thực vật học Côn Minh (KUN).[16]
  • Z. newmanii: Newman M.F. 52; thu thập ngày 17 tháng 3 năm 1985 ở cao độ 150 m, tọa độ 8°26′0″B 99°43′0″Đ / 8,43333°B 99,71667°Đ / 8.43333; 99.71667, thác Karoom (Karome), Vườn quốc gia Khao Luang, tỉnh Nakhon Si Thammarat, Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU). Cũng được trồng tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh số 1986-0748 và Vườn ươm cây Lyon ở Hawaii số L93.0451.[4][13]
  • Z. nudicarpum: D.H.Qin & R.Z.Huang 36982; thu thập ở cao độ 340 m, hương Na Bỉ (那比), huyện Bách Sắc (nay thuộc huyện Điền Lâm, địa cấp thị Bách Sắc), Quảng Tây. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Trung y dược Quảng Tây ở Nam Ninh (GXMI).[5]
  • Z. peninsulare: Geesink R. & Santisuk T. 4964; thu thập ngày 24 tháng 4 năm 1973 ở tọa độ 9°15′0″B 98°20′0″Đ / 9,25°B 98,33333°Đ / 9.25000; 98.33333, Khlong Kam Puang, tỉnh Ranong, Thái Lan. Mẫu holotype/lectotype lưu giữ tại Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L), các mẫ isolectotype lưu giữ tại BKF và L.[6][13]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh montanum (giống đực: montanus, giống cái: montana) có nghĩa là miền núi, thuộc về miền núi.

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này là bản địa khu vực từ miền nam Trung Quốc (trung nam, đông nam, Hải Nam), Lào,[17] Thái Lan, Việt Nam.[18][19] Môi trường sống là nền rừng ở cao độ 150–400 m.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Z. montanum thuộc về tổ Zingiber.[4][5][6] Nó là một thành viên của nhóm Z. montanum; bao gồm Z. corallinum, Z. griffithii, Z. idae, Z. montanum, Z. neesanum, Z. purpureum, Z. tenuiscapus.[15][20]

Thân rễ ruột màu trắng, đường kính 1,5-2,5 cm. Thân giả 1,2-2,5(-3) m, đường kính 1,8 cm. Lá 29-37; bẹ có sọc, gần như nhẵn nhụi hoặc có lông; lưỡi bẹ dài 2–10 mm, đỉnh khía răng cưa hoặc 2 thùy, gần như nhẵn nhụi hoặc có lông; cuống lá 3–5 mm, cùng gân lá mặt dưới gần như nhẵn nhụi hoặc có lông tơ; phiến lá hình mác tới hình elip-thuôn dài, 18-46 × 4–11 cm, đáy hẹp tới thon nhỏ dần, đỉnh nhọn tới nhọn thon, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới gần như nhẵn nhụi hoặc đôi khi có lông tơ ở gân giữa. Cán hoa 1-2, mọc từ thân rễ gần gốc thân lá, dài 33–38 cm, màu đỏ thắm; cành hoa bông thóc hình thoi tới hình trứng, 7-16 × 2,5-3-(6) cm, đỉnh thuôn tròn; cuống cụm hoa thẳng đứng hoặc đôi khi hơi uốn cong tới phủ phục, dài (5-)10–25 cm, đường kính 3,5–8 mm, gần như nhẵn nhụi, ở trên mặt đất; các bẹ dạng vảy, dài 1-4,5 cm, gần như nhẵn nhụi, màu ánh đỏ tới đỏ thắm; lá bắc hình trứng ngược, 3,7-5 × 1,5–6 cm, xếp lợp, đỉnh tù tới thuôn tròn, gần như nhẵn nhụi, màu từ đỏ tươi đến đỏ thắm, chuyển thành màu ánh đỏ khi khô, đỡ 1 hoa; lá bắc con hình trứng-thuôn dài, 2,5-3,3 × 0,5-1,7 cm, dạng màng, đỉnh tù, gần như nhẵn nhụi. Hoa màu trắng hoặc ánh vàng, dài 7–8 cm, nhẵn nhụi. Đài hoa dài 2,5-3,3 cm, hơi dài hơn lá bắc con, dạng màng, trong suốt, đỉnh 3 răng khó thấy. Ống tràng hoa dài ~4,5 cm, màu trắng tới trắng kem; các thùy bên hình mác, dài 1,8–2 cm, rộng 5–7 mm, dạng nắp; thùy giữa lớn hơn, dài 2-2,5 cm, rộng 0,7-1,3 cm. Cánh môi màu tía tới tía sẫm hay màu máu lốm đốm màu trắng tới trắng kem, dài ~2,5 cm; thùy giữa hình trứng, dài 1,3 cm, rộng 1-1,5 cm, đỉnh 2-4 thùy; các thùy bên hình trứng, dài 6–8 mm, rộng 5–7 mm, đỉnh khía răng cưa. Chỉ nhị dài ~2 mm, màu đỏ thắm; bao phấn dài 1,3-1,5 cm, màu kem; phấn hoa hình cầu-hình trứng; phần phụ liên kết (mào) hình chỉ, nhẵn nhụi, đỉnh 2 rãnh, dài 1,2-1,4 cm, màu từ tía tới tía sẫm. Các tuyến trên bầu dạng vỏ trấu, dài 7 mm. Bầu nhụy nhẵn nhụi, 3 ngăn. Đầu nhụy hình chuông, có lông rung, màu trắng. Quả nang trần trụi, 2 ngăn, nhiều hạt; hạt nhiều góc cạnh. Ra hoa tháng 3-6. 2n = 22.[1][2][3][4][5][6][7]

Z. montanum khác với Z. purpureum ở chỗ các lá bắc của cụm hoa có màu đỏ thắm và hoa với cánh môi và nhị lép bên màu đỏ ánh tía sẫm như màu máu khô và lốm đốm màu trắng-kem trong khi ở Z. purpureum thì các lá bắc của cụm hoa có màu từ đỏ sẫm tới nâu hạt dẻ, ánh tía hoặc hầu như màu nâu, thường với mép màu ánh xanh lục, cũng như hoa với cánh môi và nhị lép bên màu kem trắng không đốm.[15]

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Khác với Z. purpureum được trồng rộng khắp trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á để dùng làm thuốc thì Z. montanum không được trồng và chưa có ghi nhận nào về việc dùng làm thuốc.[15]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tư liệu liên quan tới Zingiber montanum tại Wikimedia Commons
  • Dữ liệu liên quan tới Zingiber montanum tại Wikispecies
  • Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Zingiber montanum”. International Plant Names Index.
  1. ^ a b c Link J.H. F. trong Dietrich A. G., 1831. Classis I. Monandria – Monogynia: Zingiber montanum trong Linnaeus C., 1831. Species Plantarum (ấn bản lần 6, Willdenow K. L. biên tập) 1 (pars 1, sectio 1): 52.
  2. ^ a b c d J. G. König trong Retzius A. J., 1783. Amomum montanum. Observationes Botanicae fasc. III: 51-52.
  3. ^ a b c Giseke P. D., 1792. Jaegera montana. Praelectiones in Ordines Naturales Plantarum tr. 203; Jaegera: tr. 236.
  4. ^ a b c d Theilade I., 1999. A synopsis of the genus Zingiber (Zingiberaceae) in Thailand. Nordic Journal of Botany 19(4): 389-410, ISSN 0107-055X, doi:10.1111/j.1756-1051.1999.tb01220.x. Xem trang 407-408.
  5. ^ a b c d e Fang D., 1982. Some new taxa of Zingiberaceae from Guangxi (4): Zingiber nudicarpum. Guihaia 2(3): 135-141. Xem trang 139-141.
  6. ^ a b c d Theilade I., 1999. A synopsis of the genus Zingiber (Zingiberaceae) in Thailand. Nordic Journal of Botany 19(4): 389-410, ISSN 0107-055X, doi:10.1111/j.1756-1051.1999.tb01220.x. Xem trang 401.
  7. ^ a b Zingiber nudicarpum trong Flora of China. Tra cứu ngày 2-6-2021.
  8. ^ a b The Plant List (2010). Zingiber montanum. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  9. ^ Baker J. G., 1892. Order CXLIX. Scitamineae: Zingiber casumunar trong Hooker J. D., 1892. The Flora of British India 6(18): 248.
  10. ^ Schumann K. M., 1904. IV. 46. Zingiberaceae: Zingiber cassumunar trong Engler A., 1904. Das Pflanzenreich Heft 20: 179.
  11. ^ a b c Zingiber montanum trong CABI. Tra cứu ngày 1-6-2021.
  12. ^ Theilade I., 1996 xb. 1998. Revision of genus Zingiber in Peninsular Malaysia: Zingiber montanum. Gardens' Bulletin. Singapore 48(1-2): 207-236. Xem trang 225.
  13. ^ a b c Zingiber montanum trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 2-6-2021.
  14. ^ Wolff X. Y.; Astuti I. P.; Brink M., 1999. Spices: Zingiber G.R. Boehmer. Plant Resources of South-East Asia (PROSEA). Quyển 13, 400 trang, xem trang 233-238. ISBN 9789798316340, ISBN 9789057820465.
  15. ^ a b c d Lin Bai, Bruce Roger Maslin, Pramote Triboun, Nianhe Xia, Jana Leong-Škorničková, 2019. Unravelling the identity and nomenclatural history of Zingiber montanum, and establishing Z. purpureum as the correct name for Cassumunar ginger. Taxon 68(6): 1334-1349, doi:10.1002/tax.12160.
  16. ^ Zingiber purpureum trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 2-6-2021.
  17. ^ K. Souvannakhoummane & J. Leong-Škorničková, 2017. Eight new records of Zingiber Mill. (Zingiberaceae) for the Flora of Lao P.D.R.. Edinburgh Journal of Botany 75(1): 3-18, doi:10.1017/S0960428617000312.
  18. ^ Lý Ngọc Sâm, Đặng Văn Sơn, Đỗ Đăng Giáp, Trần Trọng Tuấn, Đỗ Ngọc Đài & Nguyễn Danh Hùng, 2017. Zingiber nudicarpum D.Fang (Zingiberaceae), a newly recorded species for Vietnam. Bioscience Discovery 8(1): 1-5.
  19. ^ Zingiber montanum trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 2-6-2021.
  20. ^ Mu Mu Aung, 2016. Taxonomic study of the genus Zingiber Mill. (Zingiberaceae) in Myanmar. Luận án tiến sĩ, Đại học Kochi. Xem trang 24-25.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Honkai: Star Rail - Hướng dẫn build Luocha
Honkai: Star Rail - Hướng dẫn build Luocha
Luocha loại bỏ một hiệu ứng buff của kẻ địch và gây cho tất cả kẻ địch Sát Thương Số Ảo tương đương 80% Tấn Công của Luocha
Một góc nhìn, quan điểm về Ngự tam gia, Tengen, Sukuna và Kenjaku
Một góc nhìn, quan điểm về Ngự tam gia, Tengen, Sukuna và Kenjaku
Ngự tam gia là ba gia tộc lớn trong chú thuật hồi chiến, với bề dày lịch sử lâu đời, Ngự Tam Gia - Zenin, Gojo và Kamo có thể chi phối hoạt động của tổng bộ chú thuật
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3
Hướng dẫn nhiệm vụ và thành tựu Khvarena of Good and Evil phần 3
Nhân vật Sakata Gintoki trong Gintama
Nhân vật Sakata Gintoki trong Gintama
Sakata Gintoki (坂田 銀時) là nhân vật chính trong bộ truyện tranh nổi tiếng Gintama ( 銀 魂 Ngân hồn )