Anne no Nikki

Anne no Nikki
Áp phích phim tại Nhật Bản
Đạo diễnAkinori Nagaoka
Tác giảHachirō Konno, Roger Parbes
Dựa trênNhật ký Anne Frank
của Anne Frank
Âm nhạcMichael Nyman
Hãng sản xuất
Công chiếu
  • 19 tháng 8 năm 1995 (1995-08-19) (Nhật)
Thời lượng
102 phút
Quốc giaNhật Bản
Ngôn ngữTiếng Nhật

Anne no Nikki (アンネの日記?), là một anime năm 1995 dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Anne Frank. Phim được sản xuất bởi hãng Madhouse và do Akinori Nagaoka làm đạo diễn.

Tóm tắt

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim kể về Anne Frank, một cô bé 13 tuổi sống ở Amsterdam do Đức bấy giờ chiếm đóng trong Thế chiến II. Cô may mắn trốn thoát khỏi cuộc đàn áp người Do Thái của Đức Quốc Xã và lánh nạn trong một trái nhà nơi cô dành cả ngày để viết nhật ký kể về cuộc sống, những mối tình và ước mơ của đời mình.

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim do Katsuyuki Kubo thiết kế nhân vật và Michael Nyman sáng tác phần âm nhạc. Hai bài hát trong phim là "If" (sáp nhập từ bài "Time Lapse" trong phim A Zed & Two Noughts) và "Why" đã trở thành những tác phẩm hòa nhạc.[1] Không những vậy, bài hát thứ nhất còn xuất hiện trong một phiên bản thay thế trong phim The Libertine. Người trình diễn là ca sĩ contralto Hilary Summers. "Candlefire" cũng như các phiên bản dành riêng cho piano của "If" và Why" cũng có mặt trên ấn phẩm 2005 của Nyman, The Piano Sings. Về phần phân vai, Reina Takahashi đảm nhiệm vai nữ chính Anne Frank trong khi Gou Katou đảm nhận vai Otto Frank và Tano Seiko lồng tiếng cho Margot Frank.[2]

Bộ phim ra mắt dưới dạng DVD ở Pháp (lấy tên Le Journal d'Anne Frank) với phụ đề tiếng Anh. Một phiên bản dự định ra mắt ở Bắc Mỹ vào năm 2015, tuy nhiên, đến năm 2019 vẫn chưa được công chiếu.[3]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
The Diary of Anne Frank
Album soundtrack của Michael Nyman
Phát hành1995
Thể loạiSoundtrack
Hãng đĩaVirgin Venture
Thứ tự album của Michael Nyman
Carrington
(1995)
The Diary of Anne Frank
(1995)
After Extra Time
(1996)

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. Amsterdam Dawn
  2. Anne's Birthday
  3. The Schoolroom
  4. Letter From Germany
  5. Goodbye Moortje
  6. Candlefire
  7. Renewal
  8. Light Of Love
  9. Chatterbox Waltz
  10. Hanukah
  11. Spring Freedom
  12. Concentration Camp
  13. If
  14. First Kiss
  15. D-Day
  16. The Diary Of Hope
  17. Silent Separation
  18. Lament For Lost Youth
  19. Why

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim đón nhận những ý kiến tiêu cực. Justin Sevakis của Anime News Network nói rằng "ngay cả một câu chuyện có sức mạnh như Anne Frank cũng không thể khỏa lấp nổi cách làm phim ghê tởm và những lựa chọn kỳ lạ chẳng mang lại ý nghĩa gì của đạo diễn phim" và rằng ông không thể "nghĩ ra cách nào tồi tệ hơn để trải nghiệm câu chuyện hơn là xem phim này".[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Animation day in Cannes animated film Anna Frank” (bằng tiếng Anh). Film Festivals. ngày 4 tháng 11 năm 2017.
  2. ^ “Anne no Nikki anime” (bằng tiếng Anh). MyAnimeList. ngày 4 tháng 11 năm 2017.
  3. ^ “Animated Film "Anne Frank's Diary" Set To Release Online This Fall”. ngày 23 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2017.
  4. ^ Justin Sevakis (ngày 2 tháng 4 năm 2013). “The Diary of Anne Frank”. Anime News Network. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2014.
  • The Anime Encyclopedia của Jonathan Clements và Helen McCarthy (bản in thử và bản mở rộng), "Diary of Anne Frank," tr. 144

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]