Henri Parmentier (1871 - 22 tháng 2 năm 1949) là một nhà khảo cổ học người Pháp, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm Pa cổ xưa. Ông góp phần quan trọng trong việc thu thập, bảo tồn những hiện vật thuộc nền văn hóa người Chăm tại Mỹ Sơn và phục hồi các di tích Angkor ở Cao Miên.
Ông sinh năm 1871 tại Paris, Pháp và tốt nghiệp môn kiến trúc tại École des beaux-arts de Paris (Trường mỹ thuật Paris) ở Paris.
Công việc đầu tiên của ông trong khảo cổ là nghiên cứu tầm quan trọng của các đền thờ Baal-Hammon (thần Saturn của người La Mã) tại Dougga, Tunisia.
Tháng 11 năm 1900 ông sang Đông Pháp[1] rồi gia nhập Viện Viễn Đông Bác Cổ (ÉFEO), chuyên nghiên cứu và phục hồi các di tích Chăm Pa tại Đông Dương. Ông tham gia vào các cuộc khảo cổ tại Mỹ Sơn (1901-1904), Đồng Dương, Chánh Lô (1905), và Banteay Srey (1906). Năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được ông và Louis Finot (1864-1935, Giám đốc đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ) công bố. Qua công trình nghiên cứu của ông, ta biết vào đầu thế kỷ 20, Mỹ Sơn có 68 công trình kiến trúc mà Parmentier chia thành các nhóm từ A, A' đến N.
Parmentier cũng là người đảm nhiệm việc khôi phục lại các đền thờ Po Nagar (Tháp Bà) và Po Klaung Garai tại Nha Trang từ năm 1905 tới năm 1908.
Trong khoản thời gian này, ông chuẩn bị cho các chương trình bảo tồn Angkor Wat và phục chế các bộ sưu tập cổ vật tại bảo tàng của Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội (nay là Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Ông cũng góp phần xây dựng Viện bảo tàng của Viện tại Đà Nẵng, (nay là Viện Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng).
Cho đến khi mất, Parmentier dành nhiều thì giờ chú tâm đến ngành khảo cổ, thu thập các tài liệu viết tay, bảo tồn các công trình nghiên cứu, và phục hồi các di tích Angkor.
Ông qua đời ngày 22 tháng 2 năm 1949 tại Phnom Penh.[1]