Phụ nữ người Chăm với trang phục truyền thống bên tháp cổ | |
Tổng dân số | |
---|---|
800.000 trên toàn thế giới. | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Việt Nam | 178.948 [1] |
Campuchia | 510.000-600.000 [2] |
Malaysia | 14.000 [2] |
Thái Lan | 4.600 [2] |
Hoa Kỳ | 4.200 [2][3] |
Pháp | 1.100 [2] |
Lào | 600 [2] |
Ả Rập Xê Út | 100 |
Ngôn ngữ | |
Chăm, Haroi, Khmer, Việt, Mã Lai | |
Tôn giáo | |
Đa phần theo Hồi giáo dòng Sunni, Bani, Ấn Độ giáo. Ngày nay có số theo Tin Lành, Thiên chúa và số còn lại là tín ngưỡng địa phương. | |
Sắc tộc có liên quan | |
Người Chăm, người Chăm Pa hay người Degar-Champa (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, Urang Campa; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, Chónchèat Cham; tiếng Thái: ชาวจาม; tiếng Lào: ຊາວເຜົ່າຈຳ), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời, người Cham...,[4][5] là một sắc tộc thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc từ Đông Nam Á hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Từ thế kỷ 2 đến giữa thế kỷ 15, người Chăm cư trú tại Miền Trung Và Miền Nam (Việt Nam), một lãnh thổ tiếp giáp của các quốc gia độc lập ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Họ nói ngôn ngữ Chăm, thứ ngôn ngữ mà trước đây vẫn được người Chăm nói, và ngôn ngữ Tsat được dùng bởi con cháu người Utsul của họ trên đảo Hải Nam của Trung Quốc, hai ngôn ngữ Chamic từ ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo của ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm và người Mã Lai là những dân tộc Nam Đảo lớn duy nhất định cư ở lục địa Đông Nam Á thời kỳ đồ sắt trong số những cư dân Nam Á (Austroasiatic) cổ hơn.
Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người,[1] năm 2009 là 161.729 người, xếp thứ 14 về dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.[6][7][8] Theo phân loại của Joshua Project có hai nhánh là Chăm Tây với tổng dân số 331 ngàn[2] cư trú ở Việt Nam, Campuchia và các nước khác, và Chăm Đông với tổng dân số 135 ngàn[3] cư trú chủ yếu ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhóm Chăm H'roi cư trú ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Gia Lai với tổng dân số 45 ngàn người[9].
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia Chăm Pa độc lập trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Ở Việt Nam, người Chăm có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo như người Gia Rai, người Ê Đê, người Ra Glai và người Chu Ru. Bên ngoài Việt Nam, người Chăm có quan hệ gần gũi với người Mã Lai.
Trong một thời gian dài, theo nhà nghiên cứu Peter Bellwood cho rằng người Chăm đã băng qua đường biển vào thiên niên kỷ đầu tiên TCN từ Malaysia và Indonesia (Sumatra và Borneo), cuối cùng định cư ở miền trung Việt Nam hiện đại.
Do đó, người Chăm gốc có khả năng là người thừa kế của các nhà hàng hải Nam Đảo từ Nam Á, những người có hoạt động chính là thương mại, vận tải và có lẽ cả cướp biển. Không hề hình thành một chế độ dân tộc nào để lại dấu vết trong các nguồn tài liệu viết, họ đã đầu tư các cảng ở đầu các tuyến đường thương mại quan trọng nối Ấn Độ, Trung Quốc và các đảo của Indonesia, sau đó, vào thế kỷ 2, họ thành lập vương quốc Chăm Pa, rồi để Việt Nam dần dần chiếm lấy lãnh thổ.
Các mô hình, niên đại di cư vẫn còn được tranh luận và người ta cho rằng người Chăm, nhóm dân tộc Nam Đảo duy nhất có nguồn gốc từ Nam Á, đến Đông Nam Á bán đảo muộn hơn qua Borneo. Đông Nam Á lục địa đã được cư trú trên các tuyến đường bộ bởi các thành viên của ngữ hệ Nam Á, chẳng hạn như người Môn cổ khoảng 5.000 năm trước. Người Chăm là những người đi biển thành công của người Nam Đảo từ nhiều thế kỷ đã đông dân cư và sớm thống trị vùng biển Đông Nam Á. Những ghi chép sớm nhất được biết đến về sự hiện diện của người Chăm ở Đông Dương có từ thế kỷ 2 SCN. Các trung tâm dân cư xung quanh các cửa sông dọc theo bờ biển kiểm soát xuất nhập khẩu của lục địa Đông Nam Á, do đó thương mại hàng hải là bản chất của một nền kinh tế thịnh vượng.
Văn học dân gian Chăm bao gồm một huyền thoại sáng tạo, trong đó người sáng lập ra chính thể Chăm đầu tiên là Thiên Y A Na. Xuất thân từ một nông dân khiêm tốn ở đâu đó trên dãy núi Đại An, tỉnh Khánh Hòa, các linh hồn đã hỗ trợ bà khi bà đi du lịch Trung Quốc trên một khúc gỗ đàn hương trôi nổi, nơi bà kết hôn với một người đàn ông hoàng tộc và có hai người con. Cuối cùng, bà trở lại Chăm Pa để "làm nhiều việc thiện trong việc giúp đỡ người bệnh và người nghèo" và "một ngôi đền đã được dựng lên để vinh danh bà", ngày nay được biết đến là Tháp Po Nagar.
Người Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga (thế kỷ 12-13 SCN).
Giống như vô số các thực thể chính trị khác của Đông Nam Á, các chính quốc Champa đã trải qua quá trình Ấn hóa kể từ thời kỳ sơ khai do kết quả của nhiều thế kỷ tương tác kinh tế - xã hội được chấp nhận và giới thiệu các yếu tố văn hóa và thể chế của Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ 8 trở đi, người Hồi giáo từ các vùng như Gujarat bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trong thương mại và vận chuyển của Ấn Độ. Các ý tưởng Hồi giáo đã trở thành một phần của làn sóng trao đổi rộng lớn, đi trên con đường như Ấn Độ giáo và Phật giáo nhiều thế kỷ trước. Người Chăm đã tiếp thu những ý tưởng này vào thế kỷ 11. Có thể thấy điều này trong kiến trúc của các ngôi đền Chăm, có những điểm tương đồng với kiến trúc của các đền Angkor. Ad-Dimashqi viết vào năm 1325, "đất nước Champa ... là nơi sinh sống của người Hồi giáo và những người sùng bái thần tượng. Đạo Hồi đến đó vào thời Caliph Uthman ... và Ali, nhiều người Hồi giáo đã bị trục xuất bởi Umayyad và Hajjaj, bỏ trốn ở đó ".
Sách Đảo di chí lược (岛夷誌略) của Trung Quốc ghi lại rằng tại các cảng Chăm, phụ nữ Chăm thường kết hôn với các thương nhân Trung Quốc, những người thường xuyên quay lại với họ sau các chuyến đi buôn bán. Một thương nhân Trung Quốc từ Tuyền Châu, buôn bán rộng rãi với Chăm Pa và kết hôn với một công chúa người Chăm.
Thế kỷ 12, người Chăm đã chiến đấu với một loạt các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer ở phía tây. Năm 1177, người Chăm và đồng minh của họ mở cuộc tấn công từ Biển Hồ và đánh chiếm kinh đô Angkor của người Khmer. Tuy nhiên, vào năm 1181, họ đã bị đánh bại bởi vua Khmer Jayavarman VII.
Hồi giáo đến với Chăm Pa lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ 9, song, nó không trở nên quan trọng trong cộng đồng người Chăm cho đến sau thế kỷ 11.
Người Chăm di cư đến Sulu được gọi là Orang Dampuan. Chăm Pa và Sulu giao dịch thương mại với nhau, dẫn đến việc các thương gia người Chăm đến định cư ở Sulu, nơi họ được gọi là Orang Dampuan từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 13. Những Orang Dampuan đã bị tàn sát bởi những người Sulu Buranun bản địa ghen tị do sự giàu có của Orang Dampuan. Buranun sau đó bị Orang Dampuan tàn sát trả đũa. Thương mại hài hòa giữa Sulu và Orang Dampuan sau đó đã được khôi phục. Người Yakans là hậu duệ của Orang Dampuan sống ở Taguima, người đã đến Sulu từ Chăm Pa. Sulu tiếp nhận nền văn minh ở dạng Indic từ Orang Dampuan.
Một số người Chăm cũng vượt biển sang bán đảo Mã Lai và ngay từ thế kỷ 15, một thuộc địa của người Chăm đã được thành lập ở Malacca. Người Chăm chạm trán với Hồi giáo Sunni ở đó vì Vương quốc Hồi giáo Malacca đã chính thức là Hồi giáo từ năm 1414. Vua Chăm Pa sau đó trở thành đồng minh của Vương quốc Hồi giáo Johor; vào năm 1594, Champa đã gửi lực lượng quân sự của mình để chiến đấu cùng với Johor chống lại sự chiếm đóng Malacca của người Bồ Đào Nha. Giữa năm 1607 và 1676, một trong những vị vua Chăm Pa đã cải sang đạo Hồi và nó trở thành một đặc điểm nổi trội của xã hội Chăm. Người Chăm cũng sử dụng bảng chữ cái Jawi.
Các ghi chép lịch sử ở Indonesia cho thấy ảnh hưởng của Nữ hoàng Dwarawati, một công chúa Hồi giáo đến từ vương quốc Chăm Pa, đối với chồng của bà, Kertawijaya, vị vua thứ bảy của Đế chế Majapahit, đến nỗi hoàng gia của Đế chế Majapahit cuối cùng đã chuyển sang đạo Hồi, mà cuối cùng đã dẫn đến sự chuyển đổi sang Hồi giáo của toàn bộ khu vực. Ngôi mộ của công chúa Chăm Pa có thể được tìm thấy ở Trowulan, nơi đóng đô của Đế chế Majapahit. Trong Babad Tanah Jawii, người ta kể rằng vua Brawijaya V có một người vợ tên là Dewi Anarawati hay Dewi Dwarawat, một người con gái Hồi giáo của vua Chăm Pa. Người Chăm có quan hệ thương mại và văn hóa chặt chẽ với vương quốc hàng hải Srivijaya, và Majapahit sau đó ở Quần đảo Mã Lai.
Một nhân vật quan trọng khác của Chăm Pa trong lịch sử Hồi giáo ở Indonesia là Raden Rakhmathay hay Hoàng tử Rahma, người còn được gọi là Sunan Ampel, một trong những Wali Sanga (Chín vị thánh), người đã truyền bá đạo Hồi ở Java. Ông được xem như là tâm điểm của Wali Sanga, bởi vì một số người trong số họ thực sự là hậu duệ của ông và/hoặc học trò của ông. Cha của ông là Maulana Malik Ibrahimm còn được gọi là Ibrahim as-Samarkandy ("Ibrahim Asmarakandi" đối với tay người Java), và mẹ của ông là Dewi Candrawulan, một công chúa Chăm Pa cũng là em gái của Nữ hoàng Dwarawati. Sunan Ampel sinh ra ở Champa vào năm 1401 CN. Ông đến Java vào năm 1443 CN, để thăm dì là Hoàng hậu Dwarawati, một công chúa Chăm Pa, người đã kết hôn với Kertawijaya (Brawijaya V), vua của Đế chế Majapahit. Truyền thuyết địa phương nói rằng ông đã xây dựng Nhà thờ Hồi giáo vĩ đại của Demak (Masjid Agung Demak) vào năm 1479 CN, nhưng các truyền thuyết khác lại quy cho Sunan Kalijaga. Sunan Ampel qua đời ở Demak năm 1481 CN, nhưng được chôn cất tại Nhà thờ Hồi giáo Ampel ở Surabaya, Đông Java.
Sự bành trướng mạnh mẽ của người Việt vào năm 1720 dẫn đến sự thôn tính hoàn toàn của vương quốc Chăm Pa vốn đã bị suy yếu và cuối cùng vương quốc đã bị tan rã vào thế kỷ 19 bởi Hoàng đế Việt Nam Minh Mạng. Để đối phó, vị vua Hồi giáo cuối cùng của Chăm Pa là Pô Chiên đã tập hợp dân chúng trong nội địa và chạy trốn xuống phía nam Campuchia, trong khi những người dọc theo bờ biển di cư đến Trengganu, Malaysia. Một nhóm nhỏ chạy về phía bắc đến đảo Hải Nam của Trung Quốc, nơi ngày nay họ được gọi là người Utsul. Nhà vua và những người tị nạn ở Campuchia sống rải rác trong các cộng đồng trên lưu vực sông Mê Kông. Những người ở lại các tỉnh Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết của miền Trung Việt Nam đã được hòa nhập vào chính thể Việt Nam. Các tỉnh của người Chăm dần bị chúa Nguyễn đánh chiếm.
Sau khi Việt Nam xâm lược và chinh phục Chăm Pa, Campuchia đã cung cấp nơi ẩn náu cho những người Chăm Hồi giáo trốn thoát khỏi sự tiêu diệt của Việt Nam.
Năm 1832, Hoàng đế Việt Nam là Minh Mạng sát nhập phần lãnh thổ cuối cùng của vương quốc Chăm Pa. Điều này dẫn đến việc thủ lĩnh Hồi giáo Chăm Katip Suma, người được đào tạo ở Kelantan, tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại người Việt. Người Việt sau đó được cho rằng đã cưỡng bức người Chăm theo đạo Hồi phải ăn thằn lằn và thịt lợn và người Chăm theo đạo Ấn Độ phải ăn thịt bò nhằm chống lại ý muốn trừng phạt của họ và đồng hóa họ với văn hóa Việt Nam.
Trước thế kỷ 7, có một vương quốc mang tên Lâm Ấp của người Chăm, tồn tại từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, Lâm Ấp có nhiều thay đổi, đặc biệt là liên tục xây tháp Ấn giáo và dựng bia tiếng Phạn, lịch sử bắt đầu được rõ ràng. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campapura, Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc, Hoàn Vương Quốc và Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh trong thời vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đại là nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chiêm Thành).
Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Champa được phục hồi nhưng chia thành các tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832).
Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt vào thời vua Thánh Tông nhà Lê để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Chính Hòa thứ (1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Tuy nhiên, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc dĩ phải cầu hòa với người Champa và cho phép người Chăm phục hồi Thuận Thành trấn (Khu tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và Chăm Pa được ghi rõ trong "Nghị định Ngũ điều" vào năm Vĩnh Thạnh thứ 8 (1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau giải thể khu tự trị vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của vua Chăm Pa có Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ Gạch), một vị hoàng tử anh hùng, giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận ngày nay) phụ trách khu vực miền núi sau Cách mạng tháng Tám.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và vùng Tây Nguyên, tỉnh Salavan và một số nơi của Lào. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng các vị chúa Panduranga thì thuộc dòng Pandu nên Champa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là hai quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ hai nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là hai quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Champa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm bị giết và 30.000 quân bị bắt làm tù binh. Sau đó, tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục tồn tại dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long trong bốn đạo: đạo Panrang hay Panduranga (đạo Phan Rang tức tỉnh Ninh Thuận), đạo Kraong (đạo Long Hương hay đạo Liên Hương tức huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), đạo Parik (đạo Phan Rí tức huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) và đạo Pạjai (đạo Phố Hài, huyện Hàm Thuận Bắc - Hàm Thuận Nam - Hàm Tân và thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Đến thời vua Minh Mạng, trấn Thuận Thành đã bị xóa sổ và trở thành phủ Ninh Thuận.
Tương tự như quốc gia của người Việt ở phía Bắc, người Chăm có lịch sử tiếp xúc và định cư lâu đời ở quốc gia Chân Lạp của người Khmer ở phía Nam. Tại Chân Lạp, từ lâu đã có cộng đồng người gốc Mã Lai, Java sang sinh sống. Do tương đồng trong ngôn ngữ và tôn giáo, người Chăm từ lãnh thổ Chăm Pa đã cộng cư với người gốc Mã Lai ở Chân Lạp.
Năm 774, vương triều Sailendra ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc Chân Lạp, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. Đầu thế kỷ thứ 9, vua Khmer là Jayavarman II mới giải phóng được đất nước, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á là Đế quốc Khmer (802-1434).
Từ những năm 944 và 945, quân Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara của người Chăm.[10] Năm 1080, quân đội Khmer lại tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa.[11] Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa.[12].
Năm 1170, vua Chăm là Jaya Indravarman đã tiến đánh Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm[13]. Vua Khmer là Jayavarman VII đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Và tới năm 1203, quân Khmer chiếm được kinh đô Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220[14]. Thất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia và các quốc gia khác như Malacca. Cộng đồng người Chăm và người Hồi giáo gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực.[15]
Năm 1594, chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca[16]. Cùng lúc này, quân Ayutthaya một lần nữa đánh bại Chân Lạp, tàn phá kinh đô Lovek. Các thế lực người Chăm, Mã Lai, Java và ngoại quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan tranh nhau giành ảnh hưởng tại Campuchia. Nhiều nhóm người gốc Chăm Mã Lai còn ám sát cả các vua Chân Lạp.[17]
Từ năm 1642, tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang Hồi giáo và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm. Năm 1672, vua Chân Lạp là Chey Chetta III lại bị một nhóm Chăm Mã Lai sát hại.[18][19]
Năm 1692, chúa Nguyễn chinh phạt tiểu quốc Panduranga khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận.[20][21] Năm 1747, vua Chân Lạp là Chey Chettha VII (1709-1755) chống đối chúa Nguyễn và hay ức hiếp người Côn Man (người Chăm, Mã Lai). Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh đón hơn 5.000 trai gái dân Côn Man về trú dưới chân núi Bà Đinh (Bà Đen). Từ đây đã đánh dấu gia đoạn "hồi hương" của những nhóm người Chăm từ Chân Lạp về lại lãnh thổ Đàng Trong.
Vào năm 1796, một thủ lĩnh người Chăm từng sống ở Kedah tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác là Tăng Mã, thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan. Có ý kiến cho rằng Tuan Phaow trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum.[22] Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy[23] Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử.[22] Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.[24][25]
Năm 1783, hai vị quan Chân Lạp là Ốc nha Nhum Rạch Bèn[26] (Thượng thư bộ Hình) và Ốc nha Cao La Hâm Sưu (Suos)[27] (Thượng thư bộ Thủy Hải quân, Samdach Chau Phraya Kalahom) từ nước Xiêm trở về bắt và giết vị Chiêu Chùy (Tể tướng) thân Đàng Trong là Mô. Nhum Rạch Bèn sau đó lại mâu thuẫn và giết cả và Cao La Hâm Sưu. Hay tin Cao La Hâm Sưu bị giết, thủ lĩnh người Chăm Mã Lai (Đồ Bà, Java) là Toàn Sét[28] Cháu Voi Vuốt (hoặc Doun Set từ tỉnh Tbong Khmum) khởi loạn, tiến đánh Oudong, Nam Vang. Doun Set sau đó tự xưng thủ lĩnh ở Oudong và sắp đặt quân gốc Chăm Malay chốt giữ Chroy Changva và Phnom Penh.[29] Năm Giáp Dần (1784), Chao Phraya Abhaya Bhubet giết được Toàn Sét (Doun Set), viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà.[30]
Năm 1793, phiên vương Thuận Thành trấn là Po Tisuntiraidapuran (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá/阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Một vị hoàng thân Chăm là Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông.[31] Po Krei Brei được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.[32]
Năm 1794, vua Chân Lạp là Ang Eng lên ngôi và sau đó tin dùng các nhóm lính người Chăm Mã Lai. Một người Mã Lai tên Tuon Set Asmit (Tuon Pha, Tuen Phaow) được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Tbong Khmum.[33] Đến thời vua Ang Chan II, nhiều người gốc Chăm Mã Lai giữ chức cao trong triều đình Chân Lạp như Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha) giữ chức Tể tướng, Samdech Chau Ponhea Tei (Tham đích Tây, Tham đích Châu Bôn Nha) nắm quân đội.
Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Chăm Pa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.[34]
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Chân Lạp Ang Chan II mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về tay các quan Trà Long[35] và La Kiên[36]. Người Chăm Mã Lai ở Chân Lạp được nhà Nguyễn tin dùng. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương cho sắp xếp quân đội để bảo hộ Chân Lạp, trong đó: lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Thành), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên)[37] xếp làm hai cơ An Man Nhất và An Man Nhị. Mỗi cơ mười đội, mỗi đội 50 người. Dùng người đầu mục là Hu Khiêm làm Suất cơ cơ An Man Nhất, Đỗ Cố làm Phó suất cơ, Tôn Ly làm Suất cơ cơ An Man Nhị, Hàn Ông làm Phó suất cơ. Sai họ chiêu tập cho đủ số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Tới năm 1835, khi lập Trấn Tây thành, nhà Nguyễn đặt quân Chăm Mã Lai làm ba cơ, Nhất, Nhị, Tam (dân Chàm 823 người làm cơ cơ An man Nhất và Nhị; dân Chà Và 223 người làm cơ An man Tam).[38] Ba cơ An Man này của người Chăm Mã Lai được nhà Nguyễn khen ngợi "chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh". Khen thưởng Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm (Hu Khiêm), Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Tuy nhiên, việc ưu ái người Chăm Mã Lai của nhà Nguyễn cũng khiến họ bị người Khmer bản địa nghi kỵ, ganh gét và xua đuổi.[38]
Cùng năm 1834, mùa đông, tháng 12, hơn 30 sách người Mán Chàm ở gần thành Quang Hoá thuộc Gia Định (nay là tỉnh Tây Ninh), tình nguyện xin phụ thuộc vào Đại Nam.[38]
Từ năm 1847, quân Nguyễn rút khỏi Chân Lạp, vua Ang Dương lên nắm quyền ở Campuhia. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), người Chàm là Chàm Ôn, Chàm Núi trước đây bị thổ phỉ bắt hiếp xua dồn đi, nay mang gia quyến xin về châu Quang Hoá (nay là Tây Ninh) dựng nhà ở. Năm 1857, đầu mục người Chàm là Ả và Ôn ở hai xã Đông Tác, Tây Thành, phủ Tây Ninh thuộc Gia Định lại về lập ấp.[38]
Năm 1858, một số cuộc nổi dậy nổ ra như người Khmer ở gần biên giới Tây Ninh và đặc biệt là người Chăm Mã Lai ở Tbuong Kmoum. Người Chăm Mã Lai nổi dậy dưới sự kêu gọi của các thủ lĩnh Tuon-Him (Tôn Hiên), Tuon-Su (Tôn Ca?) và Tuon-it (Tôn Ích). Hàng nghìn người Chăm Mã Lai chạy sang Châu Đốc tỵ nạn.[38][39]
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mâu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 1.300.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 950.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam. Malaysia thực tế có trên 50.000 người, Thái Lan khoảng 4.000 người[40]...
Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsul ở đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia. Trong thế kỷ XX, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Người Chăm ở Lào có hơn 800 hộ gia đình trong đó có 3000 người sống ở thủ đô Viêng-chăn, cộng đồng này di cư từ Campuchia do sự diệt chủng của Khơ-me Đỏ.
Trên lãnh thổ Việt Nam, năm 2019 có khoảng 178.948 người Chăm sinh sống,[6] cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh:
Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Panduranga và Chăm Nam Bộ.
Người Raglai được coi như một nhánh gần gũi của dân tộc Chăm. Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và được công nhận là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Ngoài ra những dân tộc theo ngữ hệ Nam Đảo sinh sống tại cao nguyên Đêgar (Tây Nguyên) như Người Churu, Êđê và Gia Rai đều có liên hệ về mặt chủng tộc, lịch sử, văn hóa, kinh tế... mật thiết với người Chăm.
Tại Campuchia, người theo Hồi giáo (người Muslim) gọi là Khmer Islam và hầu hết họ là người Chăm. Năm 2008, Campuhia ước tính có khoảng 320.000 đến 700.000 Người Hồi giáo, chiếm khoảng 2,4 đến 5,2 dân số cả nước. Họ sinh sống tập trung tại các tỉnh Kampong Cham, Tbong Khmum, Kampong Chhnang và Phnom Penh.[43][44] Người Muslim ở Campuchia có thể tạm chia làm ba nhóm là Chăm, Imam Sann và Chvea.
Một số cộng đồng Chăm sau khi sang Campuchia lại tiếp tục sang Malaysia và Thái Lan. Họ đều có nguồn gốc từ miền Trung Việt Nam, di cư khỏi vùng đất cũ của mình do sự Nam tiến của Đại Việt cách đây nhiều thế kỷ. Đa số họ theo Hồi giáo Sunni và có tiếp xúc chặt chẽ với người Malaysia và Indonesia do có cùng tôn giáo và ngôn ngữ cùng thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia.
Chămpa từng theo một dạng của Ấn giáo Tamil Shaivism, tới từ miền Nam Ấn Độ qua đường biển. Khi các thương gia Ả Rập, Ba Tư dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hoa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm.
Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có niên đại vào thế kỷ XI đã được phát hiện. Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung Hoa trong suốt thời kỳ nhà Đường (618–907), và các nhà buôn Ả Rập và Ba Tư trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ không phải với các dân tộc khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm theo Hồi giáo theo kiểu Ba Tư (chú trọng Ali như phái Shia) một cách truyền thống trong vùng Đông Dương.
Ngược lại đa số người Chăm ở Campuchia và Miền Tây Nam Bộ của Việt Nam, theo Hồi giáo phái Sunni, thực hiện các trụ cột như cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và thực hiện hành hương hajj đến thánh địa Mecca. Đại diện người Chăm Campuchia đã tham gia vào cuộc thi quốc tế ngâm thơ Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur. Các cộng đồng người Hồi giáo các phe Sunni Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo, và được đứng đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình Kaum Jumaat, duy trì một sự thích nghi thần học Hồi giáo phái Shia, theo đó họ cầu nguyện chỉ vào Thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Ở Việt Nam cũng có nhóm tương tự được gọi là adat Bini (Bà Ni, Ăwal, Triều Nguyễn gọi là Ni Tục). Một số thành viên của nhóm này có tham gia vào cộng đồng Chăm Hồi giáo Sunni và đang xảy ra sự chia rẽ, tranh cãi giữa Kaum Jumaat (Shia) và các phe Sunni tại Campuchia, Bini và các phe Sunni tại Việt Nam. Một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã sang các nước Hồi giáo theo các phe Sunni để nghiên cứu về Hồi giáo có xu hướng phải bắt chước cả tôn giáo lẫn phong tục Ả Rập, họ tin rằng người Chăm phải bỏ toàn bộ phong tục xưa và trở thành một người như Mã Lai, như Ả Rập.
Tại Tây Sumatra, người Minangkabau lưu truyền huyền thoại về võ sư Harimau Campo (hổ Champa). Harimau Campo cùng với các võ sư Ninik Datuak Suri Dirajo (từ Padang Panjang), Kambiang Utan (dê rừng Campuchia), Kuciang Siam (mèo Xiêm), Anjiang Mualim (chó Gujarat) là 5 tông phái chính của môn võ Pencak Silat.
Ở Việt Nam, có khoảng 60.000 người Chăm theo adat Cham (Bà Chăm, Ahiér, Triều Nguyễn gọi là Chiêm Tục). Mặc dù cả hai adat - adat Cham và adat Bini đều là adat có ảnh hưởng của Hồi giáo (1 phần) nhưng sự nhầm lẫn của người Pháp cho rẳng adat Cham là đạo Bà La Môn (Ấn giáo) đã dẫn đến quan niệm sai lầm khó sửa lại, là họ tự cho rằng mình là tín đồ Ấn giáo! Tất nhiên, ngày nay họ không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya[47] cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế[48]. Các đền thờ vua được coi là các vị thần Ấn giáo hóa thân xưa được gọi là Bimong trong tiếng Chăm. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là Po Adhia hay Po (đọc a-sá), tiếp theo là Po Tapáh và thấp nhất là Po Paséh.
Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính:
Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm và gần 31.000 người Bini. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Chăm và 11 làng Bini[49]. Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người Chăm và khoảng 10.000 người Bini [50].
Tại tỉnh An Giang có 9 xã có người Chăm sinh sống, trong đó khoảng 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh[51], sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú và Châu Thành, gần như toàn bộ theo Hồi giáo Sunni. Người Chăm ở Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ cũng hầu hết theo đạo Hồi.
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỷ.
Vì có nét sinh hoạt văn hóa đặc biệt nên làng Chăm Đa Phước thuộc huyện An Phú cũng là địa điểm du lịch thu hút du khách đến xem kỹ thuật dệt thổ cẩm. Vải Chăm có mẫu mã đặc sắc khác hẳn những hàng dệt của sắc tộc khác. Cách thức dệt còn theo lối truyền thống trên khung cửi nhưng đến thế kỷ 21 thì nguyên liệu sợi và phẩm màu không còn sản xuất ở địa phương nữa mà là mua ở nơi khác mang về dệt.[52]
Người Chăm thường sinh sống tập trung trong palei Cam (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Palei là người đóng vai trò rất quan trọng trong Palei. Luật tục Chăm ghi:
“ | Ếch có nắp đậy hang; |
” |
Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
“ | Cây to lan tỏa một lòng, |
” |
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, người Chăm có hai quận riêng tự điều hành; có Trường Trung học Pô-Klong ‘dành riêng’ cho người Chăm để tiếp nối truyền thống giáo dục ông bà.[5]
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm quy định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần sọc, ngoài quấn váy.
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quấn lên đầu, khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Tên | Sinh thời | Hoạt động |
---|---|---|
Khu Liên | Thế kỷ 2 | Quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, lãnh đạo nhân dân Tượng Lâm nổi dậy chống lại Nhà Đông Hán cai trị |
Mỵ Ê | Thế kỷ 11 | Vương phi Quốc vương Chiêm Thành Sạ Đẩu (tức Jaya Sinhavarman II). Khi quân Đại Cồ Việt chiếm được thành Phật Thệ, đã bắt nhiều người đưa về, trong đó có cả Mỵ Ê. Đến Lý Nhân bà nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn. |
Jaya Indravarman IV | ?-1192 | Vua Chăm Pa của Vương triều thứ 11, từng dẫn quân xâm lăng Đế quốc Khmer năm 1177. |
Chế Bồng Nga | ?-1390 | Po Binasuor, Vua thứ ba của Vương triều thứ 12 liên bang Chăm Pa, từng dẫn quân đánh phá Thăng Long 3 lần, về sau tử trận ở Đại Việt. |
Chế Ma Nô Đà Nan | ?-1407 | Tướng nhà Trần và nhà Hồ, người gốc Chiêm Thành. Ông tham gia cuộc chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407, tử trận. |
Chàng Lía | Thế kỷ 18 | Thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Đàng Trong thời Chúa Nguyễn thế kỷ 18. Căn cứ khởi nghĩa nay thuộc xã Ân Đức, huyện Hoài Ân tỉnh Bình Định. |
Les Kosem | ?-1976 | Sĩ quan quân đội Liên hiệp Pháp, sau là Chuẩn tướng quân đội Campuchia (Cộng hòa Khmer) có vai trò quan trọng trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và cuộc nội chiến Campuchia. Là người theo chủ nghĩa dân tộc phục quốc Champa, ông từng giữ chức Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Champa (FLC), một trong những lãnh tụ FULRO. |
Chế Linh | 1942-... | Ca sĩ, nhạc sĩ nổi danh từ thập niên 60, quê Paley Hamu Tanran, gần Phan Rang, nay thuộc xã Phước Hữu, Ninh Phước, Ninh Thuận. Sau năm 1975 ông vượt biên và định cư tại Toronto, Canada. |
Từ Công Phụng | 1942-... | Nhạc sĩ tiêu biểu cho tân nhạc Việt Nam trong thập niên 1960-1980. Hiện đang định cư tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Quê Ninh Phước, Ninh Thuận. |
Po Dharma | 1945-2019 | Nhà nghiên cứu văn hóa sử quốc tịch Pháp, sinh ở huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Năm 1972 ông sang Campuchia rồi sang Pháp du học, năm 1986 lấy bằng Tiến sĩ. Ông nghiên cứu khoa học tại Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) chuyên về lịch sử và nền văn minh Champa, có công trình khoa học viết bằng tiếng Pháp và Mã Lai, và tiếng Chăm tiếng Việt. |
Mã Điền Cư | 1954-... | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 9, 10, 11, 12, 13 (2011-2016). Quê xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận |
Inrasara | 1957-... | Tên thật là Phú Trạm, nhà thơ, nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật, nhà phê bình văn học. Quê thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận. |
Đàng Năng Thọ | ? | Nhà điêu khắc, giám đốc trung tâm văn hóa Chăm, Phan Rang. |
Lưu Văn Đức | 1967-... | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021). Quê xã Phước Thái, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận |
Trung Dũng | 1967-... | Doanh nhân người Mỹ gốc Chăm Việt. |
Bố Thị Xuân Linh | 1970-... | Đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14. Quê xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận |
Đàng Thị Mỹ Hương | 1973-... | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14. Quê xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận |
Đăng Vũ | 1977-... | Chế Đăng Vũ ca sĩ dòng nhạc vàng. Quê tỉnh Lâm Đồng. |
Huỳnh Minh Kiên | 2004-... | Á hậu 2 Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 quê tỉnh Ninh Thuận |