Đại học Yên Kinh 燕京大學 | |
---|---|
Vị trí | |
Thông tin | |
Khẩu hiệu | 因真理 得自由 以服務 (Nhân chân lý đắc tự do dĩ phục vụ) (Bởi do chân lý Đạt sự tự do Để mà phục vụ) |
Thành lập | 1919 |
Đóng cửa | 1952 |
Đại học Yên Kinh | |||||||||||||||||||||
Phồn thể | 燕京大學 | ||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | 燕京大学 | ||||||||||||||||||||
Bính âm Hán ngữ | Yānjīng Dàxué | ||||||||||||||||||||
|
Đại học Yên Kinh (tiếng Trung: 燕京大學; bính âm: Yānjīng Dàxué; tiếng Anh: Yenching University), nguyên là một viện đại học ở Bắc Kinh, Trung Quốc, hình thành do sự sáp nhập của bốn trường cao đẳng Thiên chúa giáo trong những năm 1915 tới 1920.[1] "Yên Kinh" trong tên của trường bắt nguồn từ một cách gọi khác của Bắc Kinh bởi khi xưa, thành phố này là kinh đô của Yên Quốc, một trong bảy nước thời Chiến Quốc, tồn tại đến thế kỷ III trước Công nguyên.
Đại học Yên Kinh thành lập trên cơ sở sáp nhập bốn trường học Thiên chúa giáo kể từ niên khóa 1915-1920:[1]
John Leighton Stuart được chỉ định làm hiệu trưởng trường vào tháng 1 năm 1919 khi ông phụ trách bộ môn tiếng Hy Lạp tại Viện thần học Kim Lăng (金陵神學院), một chủng viện tại Nam Kinh. Thiếu hụt tài chính ở giai đoạn khởi đầu, ông kêu gọi gây quỹ trên toàn cầu và đã nhận được sự hỗ trợ từ nhà tài phiệt Charles Martin Hall, giám độc tập đoàn Mỹ Alcoa Aluminum. Nhà trường đã mua lại vườn thượng uyển của một hoàng tử Nhà Thanh để xây một khuôn viên tráng lệ và tuyển dụng thợ làm vườn từ hoàng cung[2][3]. Năm 1926, việc xây dựng hoàn thành. Các trường Thần học, Luật và Y là những trường chính của viện đại học, bên cạnh đó còn có Khoa Nghệ thuật và Khoa học.
Stuart quyết định tạo dựng một viện đại học để phục vụ cho nền giáo dục Trung Hoa. Ông đã kêu gọi được các học giả lớn Trung Hoa và Tây phương cộng tác. Tuy Stuart hỗ trợ to lớn cho Trường Thần học, trường không cấp bằng về tôn giáo. Hồng Nghiệp là một trong những giáo sư ban đầu của trường, sau này ông trở thành Trưởng khoa Lịch sử. Năm 1928 Viện Harvard-Yên Kinh, được Đại học Yên Kinh và Đại học Harvard đồng sáng lập để truyền dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn khu vực Đông Á. Dưới sự lãnh đạo của Giáo sư Hồng, uy tín của nhà trường trong nghiên cứu về Trung Hoa học được nâng cao đáng kể, đặc biệt với sự ra đời của ấn bản Harvard-Yenching Sinological Index Series. Đến năm 1930, đây là một trong những trường đại học nổi bật nhất Trung Quốc, tự do học thuật được xem là điểm nhấn trong phương pháp sư phạm của nhà trường.
Trong giai đoạn Chiến tranh Trung-Nhật, khuôn viên trường bị Nhật chiếm đóng, Đại học Yên Kinh phải dời về Thành Đô, Tứ Xuyên. Sau khi chính thể Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập năm 1949, Đại học Yên Kinh vẫn tiếp tục duy trì, chịu sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1952, sau khi Trung Quốc tham gia Chiến tranh Triều Tiên, khoa nghệ thuật và khoa học của trường được chuyển qua Đại học Bắc Kinh còn các khoa, viện khác như khoa chính trị và luật được chuyển đến Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc, khoa kinh tế được chuyển đến Đại học Tài chính và Kinh tế Trung Ương, khoa xã hội học được chuyển về Đại học Dân tộc Trung Ương, các khoa còn lại được chuyển đến các trường khác. Cũng trong giai đoạn đó, bộ môn kỹ thuật được sáp nhập vào Đại học Thanh Hoa. Khuôn viên cũ của Đại học Yên Kinh được Đại học Bắc Kinh sử dụng. Năm 1952 Đại học Bắc Kinh dời từ trung tâm Bắc Kinh về khuôn viên Đại học Yên Kinh ở Hải Điến.
Một số giáo sư giảng dạy tại trường Đại học Yên Kinh:
Cựu sinh viên tiêu biểu gồm có:
He appeared to be coping well with his confinement and was upbeat, suggesting in an interview that his prison cell was better appointed than his room at Yenching University in Peking.