Đặc khu kinh tế Rason

Đặc khu kinh tế Rason
Chosŏn'gŭl
라진선봉 경제특구
Hancha
羅津先鋒經濟特區
Romaja quốc ngữRajin-Seonbong Gyeongje Teukgu
McCune–ReischauerRajin-Sŏnbong Kyŏngche T'ŭkku
Hải cảng Rason có ưu điểm ở Đông Bắc Á vì không bị đóng băng vào mùa đông

Đặc khu kinh tế Rason (tiếng Triều Tiên: 라진선봉 경제특구; tiếng Hán: 羅津先鋒經濟特區, Hán Việt: La Tân Tiên Phong kinh tế đặc khu; tiếng Anh: Rason Special Economic Zone), trước đây gọi là Đặc khu kinh tế Rajin-Sonbong,[1] là một Đặc khu kinh tế được chính quyền Bắc Triều Tiên thành lập tại Rason, giáp với Trung QuốcNga, vào năm 1991 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư nước ngoài. Nó tương tự như các đặc khu kinh tế của Trung Quốc và những nơi khác, được thành lập để thí điểm kinh tế thị trường trong một khu vực được kiểm soát được chỉ định. Có thể sử dụng ngoại tệ trong khu vực này.[2] Các công ty Trung Quốc và Nga đã đầu tư vào đặc khu kinh tế này, và Mông Cổ đã tham gia vào khoảng năm 2013.[3]

The Rason Special Economic Zone do Ủy ban thúc đẩy hợp tác kinh tế đối ngoại (Committee for Promotion of External Economic Cooperation - CPEEC) quản lý .[4] Các công ty nước ngoài phải được CPEEC chấp nhận để hoạt động trong khu vực này.[4]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vực này được thành lập với tên gọi Khu kinh tế và thương mại tự do Rajin vào tháng 12 năm 1991.[5][6][7] Nó được mở rộng thành Khu kinh tế và thương mại tự do Rajin-Sonbong vào tháng 9 năm 1993.[5] Kể từ khi thành lập, luật quản lý tình trạng của khu vực này đã được sửa đổi sáu lần, lần sửa đổi gần đây nhất được Đoàn chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao phê duyệt vào ngày 3 tháng 12 năm 2011.[8]

Đến cuối năm 1996, 51 doanh nghiệp nước ngoài đã đầu tư 37,3259 triệu USD vào khu vực này.[9] UNIDO ước tính khoản đầu tư sẽ tăng lên 150 triệu đô la vào cuối năm 1997.[9]

IVào tháng 8 năm 2012, một hội chợ thương mại quốc tế đã được tổ chức, cung cấp cho các nhà đầu tư và nhà báo nước ngoài cái nhìn về công trình đang được tiến hành. Khu vực này được lên kế hoạch trở thành trung tâm sản xuất, du lịch và vận tải.[10] Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng đây là một dự án thử nghiệm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hơn là sử dụng nó làm cơ sở để chuyển đổi nền kinh tế của Triều Tiên.[11]

Công ty liên doanh liên Triều đầu tiên tại Đặc khu kinh tế Rason, có tên là Công ty liên doanh Chilbosanmeri, đã được phê duyệt vào năm 2010.[12]

Bloomberg đưa tin rằng giai đoạn phát triển tiếp theo của khu vực này đã được động thổ khởi công vào tháng 6 năm 2011.[13] Tháng 11 năm 2011, công việc xây dựng các đường dây truyền tải điện nhằm đưa điện của Trung Quốc vào trong đặc khu này đã bắt đầu.[14]

Khi Jang Sung-taek bị thanh trừng vào cuối năm 2013, những lời buộc tội chống lại ông bao gồm cáo buộc rằng ông đã "không ngần ngại thực hiện hành vi phản bội vào tháng 5 năm ngoái như bán đất của khu kinh tế và thương mại Rason cho một quốc gia nước ngoài."[15]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ hành chính Triều Tiên

Đặc khu kinh tế Rason rộng 746 km2 (288 sq. mi.) nằm ở phía đông bắc của Triều Tiên. Khu vực này bao gồm điểm cực đông của đất nước. Ranh giới phía đông của khu vực này là Sông Tumen, cũng là biên giới của Bắc Triều Tiên với Trung Quốc và Nga. Rason có cảng cực bắc ở Đông Bắc Á không có băng quanh năm,[16] và do đó cảng này được hai nước láng giềng sử dụng.[17][18] Khu vực này nằm giữa 42 08'-42 38'B và 130 07'-130 42'Đ.[19]

Theo North Korean Economy Watch, khu vực này được bao quanh bởi hàng rào điện dài 56 kilômét (35 mi).[20]

Lịch sử luật đặc khu

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1993 đến năm 2012, có một luật duy nhất có tên là 'Luật của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên về Khu kinh tế và thương mại Rason', không bao gồm các chi tiết cụ thể về môi trường kinh doanh, khiến các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều câu hỏi. Luật Đặc khu kinh tế Rason đầu tiên được ban hành vào năm 1993 bao gồm các chương về Ủy ban cơ bản, nghĩa vụ và quyền hoạt động, Bảo đảm hoạt động kinh tế, Thuế hải quan, Tiền tệ và tài chính, Bảo đảm và đối xử ưu đãi và Giải quyết tranh chấp. Khung cơ bản được tiếp tục cho đến năm 2011, khi có những sửa đổi về Phát triển và quản lý đặc khu, Thành lập doanh nghiệp, Hoạt động kinh tế và thương mại và các ưu đãi và đối xử ưu đãi, cung cấp thêm chi tiết về môi trường cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nó vẫn chưa bao gồm tất cả các chi tiết cơ bản bắt buộc đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như các quy định về lao động, thuế hoặc quản lý tài chính.

Từ năm 2014, Triều Tiên bắt đầu thừa nhận sự cần thiết của một khuôn khổ pháp lý phức tạp và toàn diện hơn. Nó đã thông qua các quy định cụ thể hơn liên quan đến các lĩnh vực pháp lý như Quy định lao động cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Quy định quản lý tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, các điều lệ về thuế và thành lập và hoạt động của doanh nghiệp đã xuất hiện. Theo luật mới nhất của Đặc khu kinh tế Rason được công bố vào năm 2016, có tổng cộng 16 quy định được đưa vào bộ luật, với ít nhất 3 quy định bổ sung được ban hành

Vào tháng 10 năm 2013 và tháng 5 năm 2014, các hội nghị quốc tế về các đặc khu kinh tế đã diễn ra và khái niệm về nhiều đặc khu kinh tế cấp tỉnh đã được xem xét. Tuy nhiên, từ năm 2019, những khả năng này đã giảm đi, một phần là do lo ngại về ảnh hưởng quá mức của nước ngoài đối với xã hội Triều Tiên.[21]

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà đầu tư Trung Quốc đã cải tạo một con đường từ Rason đến Trung Quốc,[22][23] và công nhân đường sắt Nga đã cải tạo tuyến đường sắt từ Rason (nằm trên Tuyến Pyongra) đến Nga, từ đó tiếp tục đến Đường sắt xuyên Siberia.[24][25][23]

Có ba cảng trong khu vực: Cảng Rajin (công suất 3 triệu tấn), Cảng Sonbong (công suất 2–3 triệu tấn) và Cảng Chongjin (công suất 8 triệu tấn).[26] Các công ty Trung Quốc vận hành hai cầu tàu tại Cảng Rajin để xuất khẩu than và container. Một công ty Nga vận hành cầu tàu thứ ba.[27]

Đầu tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Đến nay, hầu hết các dự án đầu tư của Trung Quốc vào Triều Tiên trong các lĩnh vực giao thông, phát điện và cơ sở hạ tầng đều tập trung ở đặc khu kinh tế Rason nằm ở phía Đông Bắc. Khu Rason có quy mô lớn hơn nhiều so với Kaesong và được xem là nền móng cho các hoạt động đầu tư của Trung Quốc ở Triều Tiên.[28] Trung Quốc đã quyết định đầu tư 3 tỷ USD để phát triển khu kinh tế thương mại ở Đông Bắc Triều Tiên Họ sẽ xây dựng một sân bay, một nhà máy điện và một tuyến đường sắt xuyên biên giới và các cầu cảng ở khu công nghiệp Rason. Đổi lại, Trung Quốc được phép sử dụng cảng Rason trong 50 năm[29] Các nhà đầu tư Trung Quốc đã xây dựng con một con đường từ Rason đến Trung Quốc[30]Nga đã xây dựng các tuyến đường sắt nối vào tuyến đường sắt xuyên Siberi. Yanbian là một công ty Trung Quốc có đóng góp lớn đối với sự phát triển ở Rason, công ty này đã có mặt ở đây từ cách đây 13 năm, bắt đầu từ việc xây chợ, xây sòng bạc, một bệnh viện, một nhà máy sản xuất bánh mỳ và tòa nhà viễn thông. Hiện tại công ty đang xây một nhà máy xi măng và khai thác hai mỏ sắt[31]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ruediger Frank (16 tháng 12 năm 2014). “Rason Special Economic Zone: North Korea as It Could Be”. 38 North. U.S.–Korea Institute, Johns Hopkins University School of Advanced International Studies. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ Kang Chol Hwan (13 tháng 9 năm 2001). “Foreign-exchange coupons out of sight”. NKchosun.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2004.
  3. ^ LaFoy, Scott (27 tháng 3 năm 2014). “Energy generation in Rason”. Rice & Iron. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024. A recent report from BDSec Joint Stock Company for HBOil reveals that one of the newcomers to Rason is Mongolia. While China and Russia have rented out the piers in the Rajin portion of Rason, HBOil seems more interested in Seonbong and the energy scene.
  4. ^ a b “Information on Entry & Investment into Rajin-Sonbong District”. North Korean government. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ a b Hughes, Christopher W. (2000). Tumen River Area Development Programme: Frustrated Micro-Regionalism as a Microcosm of Political Rivalries (PDF). CSGR Working Paper No. 57/00. Centre for the Study of Globalisation and Regionalisation, University of Warwick. tr. 18. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  6. ^ John Kim and Andray Abrahamian (22 tháng 12 năm 2011). “Why World Should Watch Rason”. The Diplomat. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ Banks, Stacey (2005). “North Korean Telecommunications: On Hold”. North Korean Review. 1: 88–94. doi:10.3172/NKR.1.1.88. ISSN 1551-2789. JSTOR 43908662.
  8. ^ Bradley O. Babson (2 tháng 5 năm 2012). “Will North Korea's Plans for Foreign Investment Make It a More Prosperous Nation?”. 38 North, School of Advanced International Studies. Johns Hopkins University. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  9. ^ a b “Introduction:Pipa Tourist Hotel”. North Korean Government. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ “NKorea's economic zone remains under construction”. Associated Press. South Carolina. The State. 22 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2012.
  11. ^ Snyder, Scott (1 tháng 4 năm 2010). “Rajin-Sonbong: A Strategic Choice for China in Its Relations with Pyongyang”. China Brief. Jamestown Foundation. 10 (7). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  12. ^ Kim, Seong-Jin (19 tháng 1 năm 2010). 北, 라선특별시에 첫 남북합작 기업 승인 [North Korea approves first inter-Korean joint venture in Rason Special City]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  13. ^ “NKorea opens int'l trade fair at economic zone”. Bloomberg Businessweek. 22 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011.
  14. ^ Andray Abrahamian (24 tháng 2 năm 2012). A Convergence of Interests: Prospects for Rason Special Economic Zone (PDF) (Bản báo cáo). Korea Economics Institute. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  15. ^ Alastair Gale (12 December 2013), What North Korea Said About Jang Song Thaek The Wall Street Journal
  16. ^ Snyder, Scott (1 tháng 4 năm 2010). “Rajin-Sonbong: A Strategic Choice for China in Its Relations with Pyongyang”. China Brief. Jamestown Foundation. 10 (7). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2024.
  17. ^ Khanna, Parag (17 tháng 9 năm 2012). “Typhoon tourism: One week in North Korea”. CNN. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
  18. ^ LaFoy, Scott (27 tháng 3 năm 2014). “Energy generation in Rason”. Rice & Iron. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024. A recent report from BDSec Joint Stock Company for HBOil reveals that one of the newcomers to Rason is Mongolia. While China and Russia have rented out the piers in the Rajin portion of Rason, HBOil seems more interested in Seonbong and the energy scene.
  19. ^ “Information on Entry & Investment into Rajin-Sonbong District”. North Korean government. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  20. ^ “Rajin SEZ electrified perimeter on Google Earth”. North Korean Economy Watch. 25 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2024.
  21. ^ Carlin, Robert; Minyoung, Rachel Lee (21 tháng 12 năm 2022). “Understanding Kim Jong Un's Economic Policymaking: Rolling Out Economic Development Zones”. 38 North. The Henry L. Stimson Center. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2023.
  22. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2010.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  23. ^ a b Ruediger Frank (16 tháng 12 năm 2014). “Rason Special Economic Zone: North Korea as It Could Be”. 38 North. U.S.–Korea Institute, Johns Hopkins University School of Advanced International Studies. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2014.
  24. ^ John Kim and Andray Abrahamian (22 tháng 12 năm 2011). “Why World Should Watch Rason”. The Diplomat. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  25. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2010.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  26. ^ “Information on Entry & Investment into Rajin-Sonbong District”. North Korean government. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.
  27. ^ Andray Abrahamian (tháng 9 năm 2011). “Report on Rason Special Economic Zone, Democratic People's Republic of Korea” (PDF). Chosun Exchange. CE2011001. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  28. ^ “Con đường kinh tế "mờ mịt" của Triều Tiên”. vneconomy.vn. 2 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập 4 tháng 6 năm 2014.
  29. ^ http://vnexpress.net/tin-tuc/ban-doc-viet/co-hoi-kinh-doanh-tai-trieu-tien-2229981.html. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  30. ^ “North Korean Economy Watch » Blog Archive » Bridge on China-North Korea border being renovated”. Nkeconwatch.com. ngày 13 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.
  31. ^ http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/trieu-tien-de-dat-mo-cua-2208122.html. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Hanekawa Tsubasa (羽川 翼, Hanekawa Tsubasa) là bạn cùng lớp cũng như là người bạn thân nhất của Araragi Koyomi
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Renner thì đã quá nổi tiếng với sự vô nhân tính cùng khả năng diễn xuất tuyệt đỉnh và là kẻ đã trực tiếp tuồng thông tin cũng như giúp Demiurge và Albedo
 Cư dân mới của cảng Liyue: Xianyun - Hạc Sứ Cõi Tiên
Cư dân mới của cảng Liyue: Xianyun - Hạc Sứ Cõi Tiên
Nhắc tới Xianyun, ai cũng có chuyện để kể: cô gái cao cao với mái tóc búi, nhà chế tác đeo kính, người hàng xóm mới nói rất nhiều
Discovery Channel - Through the Wormhole Season 8 vietsub
Discovery Channel - Through the Wormhole Season 8 vietsub
Thông qua lỗ giun mùa 8 (2017) là chương trình phim khoa học do Morgan Freeman dẫn dắt đưa chúng ta khám phá và tìm hiểu những kiến thức về lỗ sâu đục, lỗ giun hay cầu Einstein-Rosen