Đặng Huy Trứ 鄧輝𤏸 | |
---|---|
Biện lý bộ Hộ | |
Tục gọi | Bố Trứ - Bố Đặng |
Tên húy | Đặng Huy Trứ |
Tên chữ | Hoàng Trung |
Tên hiệu | Võng Tân Tỉnh Trai |
Pháp danh | Đức Hải |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Đặng Huy Trứ |
Ngày sinh | 16 tháng 5 năm 1825 |
Mất | |
Ngày mất | 7 tháng 8, 1874 | (49 tuổi)
Nơi mất | xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vàng, thuộc tổng Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) |
An nghỉ | xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. |
Giới tính | nam |
Học vấn | Tiến sĩ (1855) |
Chức quan | Biện lý bộ Hộ |
Nghề nghiệp | Nhiếp ảnh gia, chính khách |
Tôn giáo | Nho giáo |
Quốc gia | Đại Nam |
Quốc tịch | Đại Nam |
Thời kỳ | Nhà Nguyễn |
Đặng Huy Trứ (鄧輝𤏸, 16 tháng 5 năm 1825 - 7 tháng 8 năm 1874) là một nhà cải cách Việt Nam thời cận đại, ông tổ nghề nhiếp ảnh ở Việt Nam và là người đầu tiên đưa kỹ nghệ đóng tàu phương Tây du nhập vào Việt Nam.
Đặng Huy Trứ, tự Hoàng Trung, hiệu Võng Tân, Tỉnh Trai, tục gọi là Bố Trứ - Bố Đặng (do ông từng làm Bố chính), pháp danh Đức Hải (thuở thiếu thời ông từng được đem quy y Tam bảo tại chùa Từ Hiếu), quê làng Bát Vọng, sau sang ngụ ở làng Thanh Lương - nay thuộc xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất năm Giáp Tuất (1874) tại xã Cao Lăng, Chợ Bến, Đồn Vàng, thuộc tổng Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Sau này ông được đưa về an táng tại Hiền Sĩ, nay ở xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đặng Huy Trứ là một trong những người có công đầu đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam, bằng việc mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường (ngày 14 tháng 3 năm 1869) ở phố Thanh Hà, Hà Nội. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, đĩnh ngộ. Khoa thi năm 1847, ông đã lọt qua các vòng thi Hương và thi Hội (đã chắc chắn đỗ tiến sĩ), đến khi thi Đình do bài thi phạm húy nên bị cách tuột và cấm thi trọn đời. Biết tài học của ông, một vị quan lớn đương triều đã mời ông về dạy học cho con em trong nhà và cho tới 8 năm sau, nhờ vị quan nọ tâu xin với vua nên ông được thi lại và đỗ tiến sĩ năm 1855.
Sinh thời, Đặng Huy Trứ làm quan đời vua Tự Đức, ông nổi tiếng thanh liêm, từng đi xứ các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Xiêm La (Thái Lan). Suốt 18 năm làm quan, Đặng Huy Trứ trải qua nhiều chức vụ, có mối quan hệ rộng rãi với các tầng lớp nhân dân cũng như sĩ phu trong và ngoài nước. Ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều và có tầm tư duy quảng bác. Sự nghiệp quan trường của ông đều nhằm mục đích canh tân đất nước nhưng quan lại đương thời thường nghĩ đến Đặng Huy Trứ như một vị quan to ham đi buôn.
Năm 1858 khi làm tri huyện Quảng Xương, ông đã lập ra các nghĩa trang để có chốn chôn cất, cúng tế cho nắm xương tàn của những cô hồn. Từ đó mới có lệ lập ra nghĩa trang ở các vùng.
Ông là nhà cải cách, gieo mầm canh tân và khai hóa thời Nguyễn giữa thế kỷ 19 với tư tưởng phát triển kinh tế (khai mỏ, mở mang thủ công nghiệp và thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải); phát triển khoa học quân sự (đưa ra tư tưởng chiến tranh nhân dân cho mọi chiến lược và chiến thuật, cử người đi học hỏi những kỹ nghệ phương Tây như đóng thuyền, chế tác vũ khí); cải cách xã hội (chống tư tưởng trọng văn khinh võ, chống hối lộ - tham nhũng, nhấn mạnh đức tính cần kiệm liêm chính – chí công vô tư của quan lại). Ông lập ra các thương điếm như Lạc Sinh Điếm, Lạc Thanh Điếm và Ty Bình Chuẩn để giao thương với phương Tây, tạo dựng nền tảng tài chính và quân sự cho triều đình nhà Nguyễn trong những 1850-1870.
Con đường canh tân đất nước của Đặng Huy Trứ bị bỏ dở sau khi ông mất. Những nỗ lực canh tân của ông không có đất phát triển do đầy rẫy những biến động về chính trị, giặc ngoại xâm của đất nước cuối thế kỷ 19. Không giống những nhà canh tân cùng thời, Đặng Huy Trứ là nhà canh tân dám dấn thân, canh tân dựa vào dân và làm lợi cho dân (công tư lưỡng lợi), dấn thân đến tột cùng trái ngược hẳn với bản tính ốm yếu về thể chất của ông.