Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. |
Đồ họa máy tính 3D hay đồ họa máy tính ba chiều (khác với đồ họa máy tính 2D), là đồ họa sử dụng một không gian ba chiều của dữ liệu hình học (thường trong hệ tọa độ Descartes) để lưu trữ trong máy tính cho các mục đích thực hiện tính toán và vẽ hình ảnh 2D. Hình ảnh như vậy có thể được lưu trữ để xem sau hoặc hiển thị trong thời gian thực.
Đồ họa máy tính 3D dựa trên thuật toán đồ họa vector trên máy tính trong mô hình khung lưới, đồ họa raster trong việc hiển thị. Trong các phần mềm đồ họa trên máy tính, sự khác biệt giữa 2D và 3D đôi khi không rõ ràng; ứng dụng 2D có thể sử dụng kỹ thuật 3D để đạt được các hiệu ứng như ánh sáng và tương tự, ứng dụng 3D có thể sử dụng một số kỹ thuật kết xuất 2D.
Đồ họa máy tính 3D này thường được gọi là mô hình 3D. Ngoài việc trả lại đồ họa, những hình mẫu được chứa trong những dữ liệu, tập tin. Tuy nhiên, có sự khác biệt: một mô hình 3D là toán học đại diện của bất kỳ ba chiều đối tượng. Một mô hình không phải là đồ họa cho đến khi nó được hiển thị. Một mô hình có thể được hiển thị giác như một hình ảnh hai chiều qua một quá trình được gọi là 3D hoặc sử dụng tại phi đồ họa mô phỏng máy tính và tính toán. Với in 3D, mô hình 3D có tương tự trả lại vào một 3D đại diện vật lý của các người mẫu, có giới hạn để làm chính xác những vẽ có thể phù hợp với mô hình ảo.
William Fetter đã được ghi với thế giới hạn máy tính, đồ họa vào năm 1961 để mô tả công việc của mình tại Boeing. Một trong những lần đầu tiên, hiển thị của máy tính được Futureworld (năm 1976), trong đó bao gồm một hoạt hình của khuôn mặt con người và một bàn tay đó đã ban đầu xuất hiện trong những năm 1972 ngắn thử nghiệm Máy tính Động Tay, được tạo ra bởi Đại học của Utah sinh viên Edwin Catmull và Fred Parke.
3D máy tính, đồ họa phần mềm bắt đầu xuất hiện trong nhà máy ở cuối những năm 1970. Đầu tiên được biết đến ví dụ là 3D, Nghệ thuật, đồ Họa, một bộ đồ họa 3D máy tính hiệu ứng, được viết bởi Kazumasa Mitazawa và phát hành vào tháng 6 năm 1978 cho các máy tính Apple II.
Đồ họa máy tính 3D có ba giai đoạn cơ bản:
Các hình mẫu mô tả quá trình hình thành hình dạng của một đối tượng. Hai nguồn phổ biến nhất của mô hình 3D là những người mà một nghệ sĩ hay kỹ sư bắt nguồn từ trên máy tính, với một số loại công cụ mô hình 3D, và các mô hình máy quét 3D vào một cái máy tính từ thế giới thực vật. Mô hình cũng có thể sản xuất được, nhưng hoặc qua vật chất mô phỏng. Về cơ bản, một mô hình 3D được hình thành từ điểm gọi là đỉnh (hoặc các đỉnh) xác định hình và mẫu đa giác. Một "giác" là một khu vực được hình thành từ ít nhất ba đỉnh (một tam giác).
Thiết kế phim hoạt hình 3D là công việc thiết kế nhân vật và môi trường cho phim hoạt hình, cũng tương tự như thiết kế game 3D. Người thiết kế trong lĩnh vực này phải thực hiện quy trình làm việc gồm nhiều giai đoạn: phác thảo ý tưởng – dựng phác thảo câu chuyện – dựng hình ảnh – làm chất liệu – diễn hoạt… cho nhân vật – môi trường trong không gian 3D.
Thiết kế hiệu ứng hình ảnh 3D đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp điện ảnh. Những cảnh diễn viên bay trong không trung - đánh nhau với quái vật, phép thuật biến hóa,… đều là những sản phẩm của thiết kế hiệu ứng hình ảnh 3D. Với lĩnh vực này, Người thiết kế có nhiệm vụ thiết kế các hiệu ứng hình ảnh, kỹ xảo 3D để thay thế cho những cảnh thực, tạo độ sống động cho những cảnh phim, qua đó, làm giảm tối đa chi phí sản xuất phim.
Với lĩnh vực thiết kế game 3D,Người thiết kế sẽ có nhiệm vụ thiết kế các nhân vật và môi trường xung quanh, tạo chuyển động – diễn hoạt cho phù hợp với ý tưởng của nhân viên lập trình phát triển game. Trong team làm game 3D, các nhân viên thiết kế đồ họa 3D sẽ làm việc dưới sự quản lý của người lập trình – phát triển game hoặc Giám đốc mỹ thuật (Art Dierector).