Acanthurus olivaceus

Acanthurus olivaceus
Cá trưởng thành
Cá con đang lớn
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Acanthuridae
Chi: Acanthurus
Loài:
A. olivaceus
Danh pháp hai phần
Acanthurus olivaceus
Bloch & Schneider, 1801
Các đồng nghĩa
  • Acanthurus epareiLesson, 1830
  • Acanthurus erythromelasSwainson, 1839
  • Acanthurus humeralisValenciennes, 1835
  • Harpurus paroticusForster, 1844
  • Acanthurus chrysosomaBleeker, 1857
  • Rhombotides xanthosomaBleeker, 1865

Acanthurus olivaceus là một loài cá thuộc họ Cá đuôi gai. Nó sống ở vùng biển nhiệt đới phía đông Ấn Độ Dương và phía tây Thái Bình Dương.[2]

Miêu tả

[sửa | sửa mã nguồn]

Acanthurus olivaceus là một loài cá hình bầu dục với chiều dài tối đa 35 cm (14 in), mặc dù chiều dài điển hình hơn là 25 cm (10 in). Cả vây lưng và vây hậu môn đều dài và thấp, kéo dài đến tận cuống đuôi. Vây lưng có chín gai và 23 đến 25 tia mềm trong khi vây hậu môn có ba gai và 22 đến 24 tia mềm. Vây đuôi có hình lưỡi liềm, các điểm phát triển dài hơn khi cá già đi. Cá trưởng thành có màu nâu xám; một đường thẳng đứng sắc nét thường tách nửa phía trước của cá ra khỏi phần sau tối hơn. Gần khuôn mặt có một vệt màu cam đặc biệt, được bao quanh bởi một viền màu đen tía, ngay phía sau đỉnh mang, và các đường màu xanh và màu cam ở đáy của vây. Giống như tất cả các loài cá đuôi gai, loài này có một cặp vảy giống như dao mổ, nhô lên từ cuống đuôi. Những con đực lớn hơn phát triển một mõm lồi giúp phân biệt rõ ràng chúng với con cái. Cá con có màu vàng.[3][4]

Phân bố và nơi ở

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài cá này được tìm thấy ở vùng nhiệt đới phía đông Ấn Độ Dương và phía tây Thái Bình Dương. Phạm vi sinh sống của nó kéo dài từ đảo Giáng sinhquần đảo Cocos (Keeling) đến miền nam Nhật Bản, Tây, Bắc và Đông Úc, Indonesia, PhilippinesHawaii. Nó sống gắn bó với các rạn san hô, thường ở các sườn bên ngoài và ở các vị trí tiếp xúc nhiều hơn. Khi trưởng thành, nó sống đơn độc hoặc đôi khi gia nhập các đàn cá, với độ sâu trong khoảng từ 9 đến 46 m (30 đến 150 ft), nhưng cá con được tìm thấy tại nước nông trong các nhóm nhỏ.[1]

Sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài cá này ăn mạt vụn và tảo phát triển dưới đáy biển, cũng như các lớp phủ tảo cát và tảo sợi mọc trên cát và các chất nền khác. Chúng thường hình thành các đàn với cá mó, cá đuối gai và các loài cá đuôi gai khác, tất cả đều có chế độ ăn tương tự; cách ăn của chúng rất quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học bằng cách giữ cho đá không bị tảo phát triển quá mức để ấu trùng san hô có thể tìm được môi trường sống thích hợp để định cư. Cá có thể đổi màu da của mình từ tối sang nhợt nhạt gần như ngay lập tức.[5][6] Tuổi thọ dài nhất được báo cáo của loài này là 32 năm, tại Rạn san hô Great Barrier của Úc.[7]

Bị đe doạ và tình trạng bảo tồn

[sửa | sửa mã nguồn]

Acanthurus olivaceus đôi khi được tìm thấy trong các chợ cá và trong nghề buôn bán cá cảnh nhưng không phải là một mục tiêu quan trọng của nghề này. Không có mối đe dọa lớn nào được công nhận, vì vậy Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã liệt kê tình trạng bảo tồn của loài này là "it quan tâm".[1]

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Russell, B., McIlwain, J., Choat, J.H., Abesamis, R., Clements, K.D., Myers, R., Nanola, C., Rocha, L.A. & Stockwell, B. (2012). Acanthurus olivaceus. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ Acanthurus olivaceus: Distribution”. Encyclopedia of Life. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
  3. ^ Acanthurus olivaceus: fiche poisson” (bằng tiếng Pháp). AquaPortail. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Acanthurus olivaceus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2020.
  5. ^ Lillie, Terry (ngày 28 tháng 4 năm 2019). “Meet Na'ena'e the orange band surgeonfish”. The Garden Island. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  6. ^ "Orange Shoulder Tang (Orangeband Surgeonfish)"
  7. ^ Choat, J.H. and Robertson, D.R. 2002a. Age-based studies on coral reef fishes. In: P.F. Sale (ed.), Coral reef fishes: dynamics and diversity in a complex ecosystem, pp. 57-80. Academic Press, Burlington, San Diego and London.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Phổ hiền Rien: Lãnh đạo Lord Tensen - Jigokuraku
Phổ hiền Rien: Lãnh đạo Lord Tensen - Jigokuraku
Rien (Từ điển, Bính âm: Lián), còn được gọi là biệt danh Fugen Jōtei (Từ điển, Nghĩa đen: Shangdi Samantabhadra), là một Sennin cấp Tensen, người từng là người cai trị thực sự của Kotaku, tổ tiên của Tensens, và là người lãnh đạo của Lord Tensen.
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Ngay từ khi bắt đầu Tensura, hẳn chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh Shizu và chiếc mặt nạ, thứ mà sau này được cô để lại cho Rimuru
Long Chủng và Slime trong Tensura sự bình đẳng bất bình thường.
Long Chủng và Slime trong Tensura sự bình đẳng bất bình thường.
Những cá thể độc tôn mạnh mẽ nhất trong Tensura, hiện nay có tổng cộng 4 Long Chủng được xác nhận