Afrosoricida

Afrosoricida
Khoảng thời gian tồn tại: Eocene–Hiện nay
Echinops telfairi
Eremitalpa granti
Phân loại khoa học e
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Mammalia
Liên bộ: Afrotheria
Bộ: Afrosoricida
Stanhope MJ, Waddell VG, Madsen O, de Jong W, Hedges SB, Cleven G, Kao D, Springer MS, 1998
Phân bọ

Afrosoricida (một tên phức hợp Latinh-Hy Lạp có nghĩa là "trông giống chuột chù châu Phi"), hay Tenrecoidea, là một bộ động vật hàm chứa các loài chuột chũi vàng Nam Phi và các con Tenrec của Madagascar và ở Châu Phi. Hai họ động vật có vú nhỏ này theo truyền thống được xem là một phần của bộ Insectivora (bộ ăn côn trùng), một taxon tổng hợp, và sau đó được đưa vào Lipotyphla sau khi Insectivora bị loại ra, trước khi Lipotyphla cũng được tìm thấy là polyphyletic. Một số nhà sinh vật học sử dụng thuật ngữ Tenrecomorpha, nhưng Gary BronnerPaulina Jenkins cho rằng tên gọi Afrosoricida là thích hợp hơn, mặc dù họ có những quan ngại về sự tương đồng giữa tên "Afrosoricida" và phân loài Afrosorex không liên quan.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo truyền thống, hai họ này được nhóm lại với những con nhím, chuột chũi và chuột chũi vàng trong Lipotyphla. Tuy nhiên, luôn có những ý kiến thiểu số gợi ý rằng Tenrecomorpha, hoặc ít nhất là các con chuột chũi vàng, không phải là những lipotyphlans thật sự. Những ý kiến này hiện đang được hỗ trợ bởi nhiều nghiên cứu di truyền cho thấy mối liên quan giữa Tenrecomorpha và các loài động vật có vú khác ở Châu Phi là Afrotheria; Tuy nhiên không có bằng chứng hình thái mạnh mẽ nào liên kết Afrosoricida cùng với những họ hàng afrotherian khác. Afrosoricids đôi khi được coi là một phần của Afroinsectiphiphilia, một Lớp (clade) trong Afrotheria.

Theo quy định, Tenrec có xu hướng là những con vật nhỏ có chiều dài từ 4 cm đến 39 cm. Không có loại cơ thể rõ rệt vì chúng đã tiến hoá để chiếm giữ vị trí thích ăn côn trùng ở Madagascar. Tuy nhiên, căn cứ vào vị trí thích hợp, chúng trông giống như chuột chũi, nhím gai hoặc rái cá. Bộ lông của chúng có thể khác nhau từ mịn đến gai và màu lông của lông thường có màu nâu bẩn. Hầu hết các loài cũng là loài ăn đêm và có thị lực kém. Tuy nhiên, râu của chúng là khá nhạy cảm và có thể phát hiện sự rung động rất nhỏ trong mặt đất để xác định vị trí con mồi của chúng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .
Lòng lợn – món ăn dân dã liệu có còn được dân yêu?
Lòng lợn – món ăn dân dã liệu có còn được dân yêu?
Từ châu Âu đến châu Á, mỗi quốc gia lại có cách biến tấu riêng với nội tạng động vật, tạo nên một bản sắc ẩm thực đặc trưng
Bài viết dành cho các bạn sinh viên công nghệ đang mông lung về con đường phía trước.
Bài viết dành cho các bạn sinh viên công nghệ đang mông lung về con đường phía trước.
Câu hỏi thường gặp nhất từ các bạn trẻ là “Nên học gì, học như thế nào để chuẩn bị tốt nhất cho việc tốt nghiệp?”
Review sách: Dám bị ghét
Review sách: Dám bị ghét
Ngay khi đọc được tiêu đề cuốn sách tôi đã tin cuốn sách này dành cho bản thân mình. Tôi đã nghĩ nó giúp mình hiểu hơn về bản thân và có thể giúp mình vượt qua sự sợ hãi bị ghét