Amblyglyphidodon batunaorum

Amblyglyphidodon batunaorum
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Amblyglyphidodon
Loài (species)A. batunaorum
Danh pháp hai phần
Amblyglyphidodon batunaorum
(Allen, 1995)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Amblyglyphidodon batunai Allen, 1995

Amblyglyphidodon batunaorum là một loài cá biển thuộc chi Amblyglyphidodon trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1995.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh ban đầu của loài, batunai, được đặt theo họ của Hanny Batuna và Inneke Batuna, chủ nhân của khu resort Manado Murex, là những người đã hỗ trợ công tác hậu cần trong chuyến đi của Allen đến vịnh Manado vào năm 1994, cũng là nơi mà mẫu định danh được thu thập[2].

Năm 2020, danh pháp của loài này được chuyển thành A. batunaorum bởi Fricke và các cộng sự, vì hàm ý của danh pháp rõ ràng là tri ân cả hai người chứ không phải riêng một Batuna[3].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. batunaorum được ghi nhận ở hầu hết vùng biển các nước Đông Nam Á hải đảo, trải dài xuống phía nam đến bờ biển Tây ÚcLãnh thổ Bắc Úc, mở rộng về phía đông đến một số đảo quốc thuộc châu Đại DươngPapua New Guinea, PalauLiên bang Micronesia (cụ thể là tại YapChuuk)[1].

A. batunaorum đặc biệt sống gần những rạn san hô nhánh Acropora ở vùng biển ngoài khơi và trong các đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 15 m[1][4].

Loài nguy cấp

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), có khoảng 30% đến 50% quần thể các loài san hô Acropora ở khu vực phân bố của A. batunaorum đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Do phụ thuộc vào môi trường sống san hô Acropora, hơn 30% quần thể của A. batunaorum được ước tính đã biến mất. Vì thế, loài này đang được xếp vào Loài sắp nguy cấp[1].

A. batunaorum có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 10 cm[4]. Cơ thể của A. batunaorummàu bạc, thường có các vệt màu xanh lam tím trên mặt và ngực. Nhiều cá thể còn có thêm một vệt sẫm màu ở rìa trên của gốc vây đuôi[5].

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 11–12; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–14[4].

A. batunaorumloài chị em với Amblyglyphidodon ternatensis. Trước khi được công nhận là loài hợp lệ thì A. batunaorum được xem là một biến thể kiểu màu của A. ternatensis[3].

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Trứng của loài này được dính chặt vào nền tổ (trên các nhánh san hô), được cá đực và cá cái bảo vệ và chăm sóc[1]. Chúng thường hợp thành nhóm trên các nhánh san hô[4].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e A. Jenkins và cộng sự (2017). Amblyglyphidodon batunai. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188528A1888295. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188528A1888295.en. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series OVALENTARIA (Incertae sedis): Family POMACENTRIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b Tang, Kevin L.; Stiassny, Melanie L. J.; Mayden, Richard L.; DeSalle, Robert (2021). “Systematics of Damselfishes”. Ichthyology & Herpetology. 109 (1). doi:10.1643/i2020105. ISSN 2766-1512.
  4. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Amblyglyphidodon batunai trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2021.
  5. ^ Amblyglyphidodon batunai Pomacentridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan