Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
An Lập | |
---|---|
— Trụ sở chính Giáo hạt Đông Hưng — | |
Tọa độ: 20°1.9942340680371728′B 106°49.54833984375′Đ / 20,033237234467°B 106,82580566406°Đ | |
Quốc gia | Việt Nam |
Miền | Đồng bằng Sông Hồng |
Giáo phận | Thái Bình |
Giáo hạt | Đông Hưng |
Thành Lập | 1907 |
Bổn mạng | Đức Mẹ hồn xác lên Trời |
Chính quyền | |
• Linh mục chánh xứ | Thômas Trần Trung Hà |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 7,5 km2 (29 mi2) |
Dân số (2009)[1] | |
• Tổng cộng | 3.200 |
• Mật độ | 43/km2 (110/mi2) |
Thánh tử đạo | Đa Minh Bùi Văn Úy |
Giám mục | Giuse Trương Cao Đại |
Đức ông | Thômas Trần Trung Hà |
Phân chia | 5 họ giáo, 1 nhà xứ |
Dân tộc | Kinh |
Giáo đường | 6 |
Website | https://www.facebook.com/pages/Gi%C3%A1o-X%E1%BB%A9-An-L%E1%BA%ADp/800970969981431?ref=hl web: https://anlapparish.blogspot.com/ |
Giáo xứ An Lập là một xứ đạo Công giáo lâu đời tại Việt Nam, thuộc Giáo hạt Đông Hưng, Giáo phận Thái Bình, cách Tòa Giám mục Thái Bình khoảng 20 km về hướng Tây Bắc. Địa bàn giáo xứ thuộc địa bàn các xã Hồng Giang và Hồng Bạch, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Giáo xứ được thành lập năm 1907, dựa trên sự chia cắt của Giáo xứ Duyên Lãng (Giáo xứ Diền). Theo giáo dân nơi đây, An Lập có nghĩa là: dân có bình An thì mới Lập nghiệp được.
Chính xứ đương kim là Luca Nguyễn Văn Định
Từ cuối thế kỷ XVII, các nhà giáo sĩ phương Tây đã đến truyền giáo tại thôn Tiền Môn, xã Thần Khê, tổng Cổ Quán, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam. Năm 1703, Giám mục Raimundo Lezzoli (tên Việt: Cao), Đại diện tông tòa Giáo phận Đông Đàng Ngoài, cho thành lập giáo họ Tiền Môn, nhận lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời làm bổn mạng.
Năm 1907, Giám mục Maximo Fernandez (tên Việt: Định), Giám quản tông tòa Giáo phận Trung, tách giáo họ Tiền Môn và 5 họ là Tây Làng, Bơn Làng, Lập Trại, Bơn Trại và Hậu Trung của xứ Kẻ Diền để lập giáo xứ mới là An Lập.[2]
Ngay sau khi thành lập giáo xứ, từ năm 1706, các giáo dân đã dựng ngôi nhà thờ đầu tiên được xây dựng đơn sơ bằng tranh, tre, gỗ tọa lạc theo hướng Đông Tây. Đến năm 1861, ngôi thánh đường thứ hai rộng lớn hơn, với chất liệu hoàn toàn bằng gỗ lim.
Năm 1913, linh mục Nghiễm cùng cộng đoàn giáo dân xây ngôi nhà thờ thứ ba hướng Bắc Nam[3]. Thời gian xây dựng mất 27 tháng mới hoàn thành ngôi nhà thờ mới với tổng diện tích 730m2, tương ứng với kích thước dài 46m, rộng 16m, cao 10m, và một cột tháp cao 28m. Nhà thờ gồm 09 gian, các phần cột, hoành, xà, kèo làm bằng gỗ Lim, trên mái lợp bằng ngói Nam.
Sau gần 100 năm sử dụng, ngôi thánh đường nhà xứ xuống cấp nặng. Ngày 10 tháng 2 năm 2001, giáo xứ xây lại ngôi thánh đường mới với kích thướng dài 60m, rộng 20m, mái tum cao 18m, tháp chuông cao 38m, tổng diện tích 1.200m2. Đến ngày 1 tháng 1 năm 2004, ngôi giáo đường mới được khánh thành.