Giáo phận Bùi Chu Dioecesis Buichuensis | |
---|---|
Nhà thờ chính tòa Bùi Chu (năm 2011) | |
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa giới | 4/5 diện tích tỉnh Nam Định (giáo xứ Khoái Đồng thuộc thành phố Nam Định và 6 huyện ở phía nam sông Nam Định) |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Hà Nội |
Thống kê | |
Khu vực | 1.350 km2 (520 dặm vuông Anh) |
Dân số - Địa bàn - Giáo dân | (tính đến 2019) 1.250.186 417.185 (32.8%) |
Giáo hạt | 13 (2017) |
Giáo xứ | 159 (2017) |
Thông tin | |
Giáo phái | Công giáo Rôma |
Thành lập | 5 tháng 9 năm 1848 |
Nhà thờ chính tòa | Nữ vương Rất Thánh Mân Côi (Nhà thờ Bùi Chu) |
Thánh bổn mạng | Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội |
Linh mục đoàn | 212 (2017) |
Nữ Tu sĩ | 977 |
Lãnh đạo hiện tại | |
Giáo hoàng | Franciscus |
Trưởng giáo tỉnh | Giuse Vũ Văn Thiên |
Giám mục | Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu |
Tổng Đại diện | Giuse Nguyễn Đức Giang |
Chưởng ấn | Vinh Sơn Đỗ Huy Hoàng |
Trang mạng | |
http://gpbuichu.org/ |
Giáo phận Bùi Chu (tiếng Latinh: Dioecesis Buichuensis) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Giáo phận có nhiều xứ đạo lâu đời và gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của Công giáo tại Việt Nam.
Tuy là giáo phận có diện tích nhỏ nhất ở Việt Nam (khoảng 1.350 km²) nhưng giáo phận Bùi Chu có số lượng cũng như mật độ tín hữu khá cao. Năm 2021, giáo phận có số giáo dân là 417.185 người, chiếm tỷ lệ 32,8% tổng dân số trên địa bàn giáo phận. Về nhân sự, giáo phận có 212 linh mục, gần 1000 nữ tu, 166 chủng sinh. Về cơ sở tổ chức, giáo phận có 13 giáo hạt với tổng số 159 giáo xứ, 17 chuẩn xứ, 425 giáo họ.[1]
Giám mục chính tòa hiện nay của giáo phận là Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu.
Ở châu Á, Việt Nam là nước đón nhận Tin Mừng khá sớm. Theo sử sách thì vào năm 1533 đã có những nhà truyền giáo đầu tiên tới Việt Nam, và những địa danh đầu tiên đón nhận Tin Mừng: Trà Lũ (giáo xứ Phú Nhai ngày nay), Quần Anh (sau kị húy đổi thành Quần Phương), và Ninh Cường đều là những miền đất thuộc giáo phận Bùi Chu. Từ thế kỷ 17, các thừa sai Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris, Dòng Âu Tinh Chân đất, và nhất là Dòng Đa Minh truyền giáo tại đây.
Giáo phận Bùi Chu ngày nay chỉ thuộc địa bàn của sáu huyện và một phần thành phố, ở về phía đông nam giáp biển của tỉnh Nam Định, thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, trước khi được hình thành như ngày hôm nay, giáo phận Bùi Chu thuộc Địa phận Đàng Ngoài (được thành lập năm 1659). Sau đó, giáo phận Bùi Chu thuộc Địa phận Đông Đàng Ngoài (được tách ra từ địa phận Đàng Ngoài vào năm 1679) rồi Địa phận Trung Đàng Ngoài (được tách ra từ địa phận Đông Đàng Ngoài vào năm 1848).
Vào năm 1936, Tòa Thánh đã tách phần đất tả ngạn sông Hồng của Địa phận Trung để thành lập Giáo phận Thái Bình, phần còn lại của Địa phận Trung là Giáo phận Bùi Chu ngày nay.
Giáo phận Bùi Chu hiện nay nằm gọn trong tỉnh Nam Định, bao gồm sáu huyện Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Nam Trực, và một phần thành phố Nam Định (các xã Nam Phong, Nam Vân và phường Cửa Nam, cùng với giáo xứ Khoái Đồng). Khoái Đồng là giáo xứ duy nhất của giáo phận nằm ở hữu ngạn (Tây Bắc) sông Đào. Giáo phận được bao bọc bởi ba con sông lớn, tiếp giáp với ba giáo phận khác. Phía Đông Bắc giáp với Giáo phận Thái Bình bởi sông Hồng, phía Tây Bắc là sông Đào (nối sông Hồng với sông Đáy) giáp với Tổng giáo phận Hà Nội, và phía Tây Nam qua sông Đáy là Giáo phận Phát Diệm; phía Đông Nam là vịnh Bắc Bộ (biển Đông).
Giáo phận thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ nên toàn bộ dân cư là người Kinh. Dân chúng Bùi Chu có khoảng 84% làm nông nghiệp, 5% làm muối và đi biển, 11% làm nghề thương mại, cơ khí kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp...[cần dẫn nguồn]
Dưới đây là danh sách chưa đầy đủ các giáo xứ và xứ tùy[2] cùng địa điểm tọa lạc của nhà thờ xứ:
Hạt Báo Đáp gồm 11 giáo xứ nằm trên địa bàn một phần thành phố Nam Định (giáo xứ Khoái Đồng) và huyện Nam Trực, xếp theo ABC:
Hạt Bùi Chu gồm 12 giáo xứ nằm trên phần phía tây huyện Xuân Trường, xếp theo ABC:
Hạt Đại Đồng gồm 13 giáo xứ nằm trên phần phía đông huyện Giao Thủy, xếp theo ABC:
Hạt Kiên Chính gồm 18 giáo xứ nằm trên phần phía đông huyện Hải Hậu, xếp theo ABC:
Hạt Lạc Đạo gồm 18 giáo xứ nằm trên phần giữa huyện Nghĩa Hưng, xếp theo ABC:
Hạt Liễu Đề gồm 12 giáo xứ nằm trên phần phía bắc huyện Nghĩa Hưng cùng với một phần nhỏ các huyện Nam Trực và Trực Ninh, xếp theo ABC:
Hạt Ninh Cường gồm 11 giáo xứ nằm trên địa bàn 5 xã thuộc huyện Trực Ninh ở phía nam sông Ninh Cơ và một phần nhỏ huyện Hải Hậu, xếp theo ABC:
Hạt Phú Nhai gồm 11 giáo xứ nằm trên phần phía đông huyện Xuân Trường, xếp theo ABC:
Hạt Quần Phường gồm 18 giáo xứ nằm trên phần phía tây huyện Hải Hậu và một phần nhỏ các huyện Trực Ninh, Xuân Trường, xếp theo ABC:
Hạt Quỹ Nhất gồm 18 giáo xứ nằm trên phần phía nam huyện Nghĩa Hưng, xếp theo ABC:
Hạt Thức Hóa gồm 11 giáo xứ nằm trên phần phía tây huyện Giao Thủy, xếp theo ABC:
Hạt Tương Nam gồm 9 giáo xứ nằm trên địa bàn huyện Trực Ninh và một phần nhỏ huyện Nam Trực, xếp theo ABC:
Hạt Tứ Trùng gồm 18 giáo xứ nằm trên phần phía tây huyện Hải Hậu giáp sông Ninh Cơ (trừ khu vực Thịnh Long), xếp theo ABC:
Tòa giám mục giáo phận đặt tại xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Đại chủng viện Bùi Chu đã trở lại hoạt động từ năm 2008 sau gần 50 năm bị đóng cửa, cơ sở của chủng viện được xây mới bên cạnh Tòa giám mục.
Giáo phận hiện có 5 hội dòng nữ tu đang hoạt động là: Dòng Đa Minh Bùi Chu, Dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao, Dòng con Đức Mẹ Mân Côi (nhà chính đặt tại giáo xứ Trung Linh), Dòng Thừa sai Đức Mẹ Trinh Vương (nhà chính Liên Thủy), và Dòng Đức Mẹ Thăm viếng (nhà chính Liên Thủy). Giáo phận Bùi Chu cũng từng là nơi một dòng tu cho nam được thành lập là Dòng Đồng Công.
Các nhà thờ trong giáo phận chủ yếu được xây dựng theo các phong cách kiến trúc Gothic và Baroque, chịu ảnh hưởng của kiến trúc cổ Việt Nam. Trong đó có những nhà thờ chủ yếu theo kiến trúc Nam, với vật liệu chính là gỗ, cung thánh được sơn son thiếp vàng hay mặt tiền nhà thờ xây theo kiểu cổng tam quan. Giáo phận hiện có 13 Đền thánh (Shrine), trong đó Đền thánh Phú Nhai đồng thời là một Vương cung Thánh đường từ năm 2008. Một số nhà thờ lớn trong giáo phận:
STT | Tên | Thời gian quản nhiệm | Ghi chú |
---|---|---|---|
Hạt Đại diện Tông tòa Trung Đàng Ngoài | |||
1 † | Domingo Martí Gia | 1848-1852 | |
2 † | José María Díaz Sanjurjo An | 1848-1857 | |
3 † | Melchor García Sanpedro Xuyên | 1853-1858 | |
4 † | Berrio Ochoa Vinh | 1857-1861 | |
5 † | Bernabé García Cezón Khang | 1864-1879 | |
6 † | Manuel Ignacio Riaño Hòa | 1866-1884 | |
7 † | Wenceslao Oñate Thuận | 1882-1897 | |
8 † | Máximo Fernández Định | 1898-1907 | |
9 † | Pedro Muñagorri Obineta Trung | 1907-1924 | |
Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu | |||
Pedro Muñagorri Obineta Trung | 1924-1936 | ||
10 † | Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn | 1935-1948 | |
11 † | Tađêô Lê Hữu Từ | 1948-1950 | Giám quản Tông tòa |
12 † | Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi | 1950-1960 | |
Giáo phận Bùi Chu | |||
13 † | Giuse Maria Phạm Năng Tĩnh | 1960-1974 | |
* | Trống tòa | 1974-1975 | |
14 † | Đa Minh Lê Hữu Cung | 1975-1987 | |
15 † | Giuse Maria Vũ Duy Nhất | 1979-1987 1987-1999 |
|
* | Trống tòa | 1999-2001 | |
16 † | Giuse Hoàng Văn Tiệm | 2001-2013 | |
17 | Phêrô Nguyễn Văn Đệ | 2006-2009 | Giám mục Phụ tá |
18 | Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu | 2012-2013 2013-nay |
Ghi chú: