Aphanapteryx bonasia

Gà nước đỏ
Hình vẽ
Hình ảnh vẽ được cho là của Jacob Hoefnagel, khoảng năm 1610
Tình trạng bảo tồn

Tuyệt chủng  (khoảng 1700)  (IUCN 3.1)[1]
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Gruiformes
Họ (familia)Rallidae
Chi (genus)Aphanapteryx
Frauenfeld, 1868
Loài (species)A. bonasia
Danh pháp hai phần
Aphanapteryx bonasia
(Selys, 1848)
Vị trí của Mauritius (màu xanh biển)
Vị trí của Mauritius (màu xanh biển)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
  • Apterornis bonasia Selys, 1848
  • Didus broecki Schlegel, 1854
  • Didus herbertii Schlegel, 1854
  • Aphanapteryx imperialis Frauenfeld, 1868
  • Aphanapteryx imperatoris Frauenfeld, 1868
  • Aphanapteryx broeckei (Milne-Edwards, 1868)
  • Didus herberti Milne-Edwards, 1868
  • Didus broeckii Milne-Edwards, 1868
  • Aphanapteryx broeckii Milne-Edwards, 1869
  • Pezophaps broeckei (Schlegel, 1873)
  • Pezophaps herbertii (Schlegel, 1873)
  • Aphanapteryx broecki Günther & Newton, 1879
  • Aphanapteryx broekei Newton & Gadow, 1893
  • Kuina mundyi Hachisuka, 1937
  • Pezocrex herberti (Hachisuka, 1953)

Aphanapteryx bonasia (gà nước đỏ) là một loài gà nước không biết bay đặc hữu của đảo Mauritius (Mô-ri-xơ) thuộc quần đảo Mascarene nằm ở phía đông Madagascar, Ấn Độ Dương. Gà nước đỏ có họ hàng gần ở đảo Rodrigues là loài gà nước Rodrigues (Erythromachus leguati), chúng đôi khi được xem là cùng giống và cả hai đều đã tuyệt chủng. Mối liên hệ giữa gà nước đỏ với những loài gà nước khác là không rõ ràng. Gà nước thường tiến hóa đến tình trạng không bay được sau quãng thời gian thích nghi với những hòn đảo cô lập không tồn tại các loài thú có vú săn mồi.

Gà nước đỏ lớn hơn một chút và có màu đỏ, bộ lông giống tóc, chân đen và chiếc mỏ dài cong, cánh nhỏ. Chân của chúng là mảnh mai nếu so với kích cỡ cơ thể. Loài này giống gà nước Rodrigues nhưng lớn hơn và cánh ngắn hơn xét kích cỡ tương ứng. Diện mạo và hành vi của chúng được đem ra so sánh với chim kiwi hoặc Aramus guarauna. Thức ăn của gà nước đỏ được tin là động vật không xương sống; người ta đã tìm thấy những chiếc vỏ ốc sên có những vết tổn thương phù hợp với đòn tấn công bằng mỏ của loài này. Lợi dụng việc gà nước đỏ bị thu hút bởi những vật thể màu đỏ, thợ săn đã dùng vải màu để nhử những con chim để từ đó có thể lấy gậy đập chúng.

Trước khi những vết tích bán hóa thạch được khám phá vào thập niên 1860, các nhà khoa học chỉ biết đến gà nước đỏ thông qua những mô tả và minh họa ở thế kỷ 17. Chúng được xem như đại diện cho một số loài khác nhau, hệ quả dẫn tới hàng loạt danh pháp đồng nghĩa không đúng. Có ý kiến cho rằng tất cả những miêu tả về loài dodo cuối thể kỷ 17 – sau khi loài này tuyệt chủng – trên thực tế là đề cập đến gà nước đỏ. Việc trông thấy gà nước đỏ được nhắc tới lần cuối vào năm 1693 và thời điểm chúng tuyệt chủng được cho là khoảng năm 1700 do sự săn bắt của con người và các loài du nhập.

Miêu tả

[sửa | sửa mã nguồn]

Gà nước đỏ từ lâu chỉ được biết đến từ một vài thiệu đương đại đại đề cập đến "gà mái" màu đỏ và các tên nếu không sử dụng cho gà gô hoặc gà nước ở châu Âu, cũng như những bản phác thảo của du khách Pieter van den Broecke và Sir Thomas Herbert từ 1617 và 1634. Đây được cho là mô tả loài riêng biệt của các loài chim của một số tác giả, nhưng đã được Hugh Edwin Strickland coi là một loài trong năm 1848. Hermann Schlegel cho rằng phác thảo của Broecke miêu tả một loài dodo nhỏ hơn từ Mauritius, và rằng bản phác họa Herbert cho thấy một dodo từ Rodrigues, và đặt tên chúng Didus broecki và Didus herberti năm 1854. Hình vẽ năm 1610 của Jacob Hoefnagel, hình vẽ năm 1601 từ tạp chí các tàu Gelderland, và năm 1638 của Peter Mundy mô tả và phác họa sau này nổi lên, nhưng vẫn còn không chắc chắn về danh tính của các con chim được mô tả.

Tuyệt chủng

[sửa | sửa mã nguồn]

Bên cạnh áp lực săn bắt từ con người, việc gà nước đỏ làm tổ trên mặt đất khiến chúng dễ bị những loài du nhập làm hại như ăn trứng hoặc con non, điều gần như chắc chắn góp phần gây ra sự tuyệt chủng cho loài này.[2] Số lượng mèo hoang, loại động vật chuyên săn bắt những con chim cư ngụ dưới mặt đất, gia tăng trong khoảng thập niên 1680.[3] Vào lúc François Leguat, người đã quen thuộc với gà nước Rodrigues trong những năm trước đó, tới Mauritius năm 1693, ông nhận thấy gà nước đỏ đã hiếm đi. Leguat là nguồn cuối cùng đề cập đến loài chim này, bởi vậy thời điểm tuyệt chủng được cho là khoảng năm 1700.[4][5]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ BirdLife International (2012). Aphanapteryx bonasia. Sách Đỏ IUCN. IUCN. 2012: e.T22728884A39099824. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Cheke, A. S. (1987). “An ecological history of the Mascarene Islands, with particular reference to extinctions and introductions of land vertebrates”. Trong Diamond, A. W. (biên tập). Studies of Mascarene Island Birds. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 5–89. doi:10.1017/CBO9780511735769.003. ISBN 978-0521113311.
  3. ^ Hume, J. P.; Winters, R. (2015). “Captive birds on Dutch Mauritius: Bad-tempered parrots, warty pigeons and notes on other native animals”. Historical Biology: 1. doi:10.1080/08912963.2015.1036750.
  4. ^ Fuller, E. (2001). Extinct Birds . New York: Comstock. tr. 96–97. ISBN 0-8014-3954-X.
  5. ^ Leguat, F. (1891). The voyage of François Leguat of Bresse, to Rodriguez, Mauritius, Java, and the Cape of Good Hope. London: Hakluyt Society. tr. 71.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tại vì sao lyrics nhạc MCK suy nhưng vẫn hay đến như vậy?
Tại vì sao lyrics nhạc MCK suy nhưng vẫn hay đến như vậy?
Nger vốn gắn liền với những bản tình ca, nổi nhất với lũ GenZ đời đầu chúng tôi khi đó là “Tình đắng như ly cafe” ft cùng Nân
Những đôi môi gây nghiện
Những đôi môi gây nghiện
Đắm chìm vào sự ngọt ngào của những đôi môi
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Một trong những điều mà chúng ta không thể nhắc đến khi nói về Tokyo Ghoul, đó chính là Kagune
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Trong không đa dạng như Rifle, dòng súng máy hạng nặng của Valorant chỉ mang tới cho bạn 2 lựa chọn mang tên hai vị thần