Arthur Honegger | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Oscar-Arthur Honegger |
Ngày sinh | String Module Error: String subset indices out of order tháng String Module Error: String subset indices out of order, 1892 |
Nơi sinh | Le Havre |
Mất | |
Ngày mất | String Module Error: String subset indices out of order tháng String Module Error: String subset indices out of order, 1955 |
Nơi mất | Paris |
Nguyên nhân | nhồi máu cơ tim |
An nghỉ | Nghĩa trang Saint-Vincent |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Thụy Sĩ, Pháp |
Nghề nghiệp | nhà soạn nhạc cổ điển, nhà âm nhạc học, giáo viên âm nhạc, nhà soạn nhạc phim, nhà soạn nhạc |
Gia đình | |
Hôn nhân | Andrée Vaurabourg |
Người tình | Claire Croiza |
Thầy giáo | Charles-Marie Widor, Vincent d'Indy |
Học sinh | Marius Constant, Yves Ramette, Bohuslav Martinů, Ginette Martenot |
Lĩnh vực | âm nhạc |
Sự nghiệp nghệ thuật | |
Năm hoạt động | 1912 – 1955 |
Đào tạo | Nhạc viện Paris, Đại học Nghệ thuật Zurich |
Thể loại | opera, giao hưởng, sardana |
Nhạc cụ | cello |
Thành viên của | |
Tác phẩm | Concerto da camera, Danse de la chèvre, Pacific 231 |
Giải thưởng | |
Chữ ký | |
http://arthur-honegger.com/ | |
Arthur Honegger trên IMDb | |
Arthur Honegger (tiếng Pháp: [aʁtyʁ ɔnɛɡɛːʁ]; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1892 tại Le Havre, mất ngày 27 tháng 11 năm 1955 tại Paris) là nhà soạn nhạc người Thụy Sĩ. Ông là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 20.[1]
Arthur Honegger hồi nhỏ rất yêu thích âm nhạc. Khi có 10 tuổi, câu bé Honegger đã thử sáng tác Những sonate và có thể tự học lấy ký âm pháp, ít lâu sau thì theo học violin. Từ năm 1909 đến năm 1911, nhà soạn nhạc trẻ tuổi người Thụy Sĩ đến và sống tại Zurich, đồng thời học môn lý thuyết âm nhạc ở các nhạc viện địa phương. Sau khoảng thời gian đó, Honegger đến Pháp và bước chân vào cổng Nhạc viện Paris. Ở đây, Honegger có một người bạn và là người đồng nghiệp mới, Darius Milhaud, nhà soạn nhạc người Pháp cũng sinh năm 1892. Từ đây, tình bạn giữa hai người nảy nở và đó là một trong các nhân tố thúc đẩy sự xuất hiện của nhóm nhà soạn nhạc Les Six (Nhóm 6 người), một nhóm các nhà soạn nhạc chất Pháp cũng nổi bật không kém gì so với nhóm Hùng mạnh của Nga thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Những năm 1915-1917, Arthur Honegger sáng tác nhiều tác phẩm thanh nhạc dựa trên thơ ca Pháp hiện đại. Trong những tác phẩm này, Honegger thể hiện rõ mình chịu ảnh hưởng của Claude Debussy và Maurice Ravel, những nhà soạn nhạc của chủ nghĩa ấn tượng. Năm 1917, ông bắt đầu nổi tiếng với bản tứ tấu đàn dây. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ gặp gỡ và kết bạn với một số nhà soạn nhạc của Pháp ngoài Milhaud. Những người bạn đó của Honegger chính là những thành viên bên cạnh Honegger và Milhaud của Nhóm 6 người. Năm 1926, Honegger nổi tiếng thế giới với vở thanh xướng kịch (oratorio) Vua David có đề tài xuất phát từ thánh thư. Năm 1936, ông gia nhập Liên đoàn âm nhạc nhân dân Pháp. Ông cùng Milhaud viết nhạc cho vở kịch nói Ngày 14 tháng 7 của Romain Rolland. Trong thời kỳ phát xít Đức chiếm nước Pháp, Honegger viết Khúc ca giải phóng. Ngoài ra, trong và sau Thế chiến II, Honegger nổi bật với các bản giao hưởng số 2 (1941), số 3 (1946) và số 5 (1950). Hai bản số 2 và 3 được gọi là "những bản giao hưởng chiến tranh". Đến năm 1953, sức khỏe của nhà soạn nhạc người Thụy Sĩ suy giảm và 2 năm sau ông qua đời tại thủ đô tráng lệ Paris.[2]
Arthur Honegger đã tiệp bước thành công những người đàn anh Debussy và Ravel. Ông là một trong những nhà soạn nhạc danh tiếng của thế kỷ XX. Ông là nghệ sĩ chín chắn, nhiệt thành trong giới nghệ thuật hiện đại. Honegger học ở Bach, Handel, Beethoven và các nhà phức điệu người Pháp đi trước. Sau đây xin nói riêng về một số nét của một vài tác phẩm của Arthur Honegger:[2]
Arthur Honegger đã để lại cho âm nhạc cổ điển thế giới gần 200 tác phẩm, có thể kể tới vở opera-oratorio Judith (1925), vở opera Antigone (1927), Amphion, ballet-kịch nói melo cho người dẫn chuyện, giọng nam trung, 4 giọng nữ và hợp xướng và dàn nhạc (1929), Đại bàng con (sáng tác cùng Ibert - 1935); 9 vở ballet nổi bật có Những đôi vợ chồng cưới trên tháp Eiffel (sáng tác cùng các thành viên trong Nhóm 6 người), Tiếng gọi của núi (1945); vở oratorio Vua David (1921), Những tiếng thét của thế giới (1931); năm bản giao hưởng (1931, 1942, 1946, 1947, 1951); các tác phẩm cho dàn nhạc có concerto cho cello, Khúc nhạc đồng quê mùa hè (1920), Khúc hát niềm vui (1923), Pacific 231 (1923), Bóng bầu dục (1928), Chuyển động giao hưởng (1933), Xây dựng mộ t thành phố (sáng tác cùng Milhaud - 1937); ba bản tứ tấu đàn dây (1917, 1936, 1937); bản sonata cho piano và violin số 1 và 2, cho viola (1920); những bản romance, hợp xướng, nhạc cho phim, trong đó có Tội ác và trưng phạt, Đại úy Fracasse. Ngoài những tác phẩm âm nhạc trên, Honegger còn để lại cuốn sách Tôi-nhạc sĩ sáng tác (1951), Hồi âm (1953).[2][4] Many of Honegger's recordings as conductor of his music have been reissued on CD by Pearl and Dutton.[5][6]
Từ điển tác giả, tác phẩm âm nhạc phổ thông, Vũ Tự Lân, xuất bản năm 2007.