Ashida Mana (tiếng Nhật: 芦田愛菜; Hepburn: Ashida Mana; Hán-Việt: Lư Điền Ái Thạo; sinh ngày 23 tháng 6 năm 2004) là một nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và MC người Nhật Bản. Lần xuất hiện đầu tiên của cô là trong một phim ngắn của Asahi Broadcasting Corporation, và cô đã dần trở nên nổi tiếng sau khi tham gia bộ phim truyền hình Mother. Ashida trở thành ngôi sao nữ đóng vai chính trẻ tuổi nhất trong lịch sử truyền hình Nhật Bản khi tham gia phim Sayonara Bokutachi no Youchien, và là nữ diễn viên chính trẻ nhất trong một bộ phim dài tập khi xuất hiện trong Marumo no Okite vào mùa xuân năm 2011.
Cô cũng xuất hiện trong các bộ phim điện ảnh Nhật Bản như Confessions và Bunny Drop. Ashida và bạn diễn Suzuki Fuku đã cùng trình bày ca khúc nổi tiếng năm 2011 "Maru Maru Mori Mori", bài hát mở đầu của bộ phim Marumo no Okite.
Ashida sinh ngày 23 tháng 6 năm 2004 tại Nishinomiya, tỉnh Hyogo của Nhật[2] và là đứa con một duy nhất trong gia đình. Cô ấy thường được gọi là Mana-chan,[3] là sự kết hợp giữa tên riêng của cô và một kính ngữ tiếng Nhật được dùng xưng hô với trẻ em (-chan). Ashida tiết lộ rằng cô ấy là một fan hâm mộ của nhóm nhạc K-pop Kara.[4] Cô thích đi xe đạp một bánh,[5] và đọc hơn 60 cuốn sách mỗi tháng.[6]
Ashida xuất hiện lần đầu trong một bộ phim ngắn của đài Asahi Broadcasting Corporation, Bokenmama vào năm 2009.[7] Bộ phim đầu tiên của cô là live-action chuyển thể từ manga Hanbun no Tsuki ga Noboru Sora vào năm 2010.[7] Cùng năm, cô tham gia bộ phim Confessions với vai Moriguchi Manami.[8] Cô cũng xuất hiện trong bộ phim Ghost: Mouichido Dakishimetai, một phiên bản làm lại của Nhật Bản từ bộ phim Ghost năm 1990.[9] Với vai diễn trong bộ phim này, cô đã chiến thắng giải thưởng "Người mới đến của năm" tại Giải thưởng Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 34.[10]
Ngoài diễn xuất, Ashida còn tham gia lồng tiếng cho các bộ phim nước ngoài được phát hành tại Nhật Bản. Cô lồng tiếng cho Agnes trong phiên bản tiếng Nhật của bộ phim Despicable Me,[8][11] và cô ấy là người lồng tiếng cho nhân vật Phương Đăng thời trẻ trong bản phát hành tiếng Nhật của Đường Sơn đại địa chấn.[12]
Ashida nổi lên sau khi xuất hiện trong bộ phim truyền hình Mother, với vai Michiki Reina, một đứa trẻ bị mẹ bạo hành. Cô đã giành được các giải thưởng như Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Nikkan Sports Drama Grand Prix lần thứ 14[13] và Giải đặc biệt tại Giải thưởng phim truyền hình Tokyo lần thứ 4 cho vai diễn của cô.[14] Năm 6 tuổi, Ashida trở thành nữ diễn viên chính trẻ tuổi nhất truyền hình Nhật Bản khi đóng phim Sayonara Bokutachi no Youchien vào năm 2011.[15] Vào mùa xuân, cô trở thành nữ diễn viên trẻ nhất trong dòng phim chính kịch Nhật Bản khi góp mặt trong Marumo no Okite.[16] Cô đóng vai chính trong bộ phim này với nam diễn viên 6 tuổi Suzuki Fuku.[2][16] Bộ phim đã nhận được tỷ suất người xem là 23,9% cho tập cuối và tỷ suất trung bình là 15,48% cho toàn bộ thời lượng phát sóng.[17]
Cô ấy đã ra mắt ngành ca nhạc với Suzuki.[18] Họ hát bài mở đầu của Marumo no Okite là "Maru–Maru–Mori-Mori!", dưới tên nhóm tạm thời là Kaoru cho Tomoki, Tamani Mook.[18] Bài hát này, được thu âm thành đĩa đơn, được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2011 bởi Universal Music và đứng thứ ba trên bảng xếp hạng Oricon,[19] khiến bộ đôi này trở thành nhóm nhạc trẻ nhất trong lịch sử đạt được vị trí top 10 trên bảng xếp hạng Oricon. Kỷ lục trước đó được lập bởi nhóm Kigurumi vào năm 2006.[19] Họ cũng tham gia phiên bản mùa hè của Lễ hội âm nhạc FNS, được phát sóng vào ngày 6 tháng 8 năm 2011 trên mạng truyền hình Fuji..[20] Vào ngày 14 tháng 8 năm 2011, Ashida xuất hiện trong chương trình truyền hình âm nhạc NHK Music Japan cùng với Suzuki, nữ diễn viên Ohashi Nozomi và nam diễn viên Kato Seishiro. Đây là lần đầu tiên cả ba xuất hiện trong cùng một chương trình, trong phân đoạn mang tên "MJ Summer Holidays: Children's Special".[21]
Đầu năm 2011, Ashida góp mặt trong một số bộ phim Nhật Bản, trong đó có Inu to Anata no Monogatari,[22] và Hankyū Densha.[23]
Cuối 2011: ca sĩ solo và ra mắt dẫn chương trình tạp kỹ
Ashida đóng chung với nam diễn viên Matsuyama Kenichi trong bộ phim chuyển thể từ truyện tranh Usagi Drop. Cô đóng vai chính Rin,[24] và được khen ngợi rộng rãi cho màn trình diễn của cô ấy. Đạo diễn của phim, Sabu, khen ngợi cô, nói rằng tiếng cười của cô "luôn vang khắp phim trường, tạo nên bầu không khí yên bình trong phim trường".[25] Nhà phê bình Mark Schilling của The Japan Times nói rằng cô ấy "hoàn thành một cách liền mạch quá trình phát triển từ một đứa trẻ bơ vơ trở thành một cô bé vui tươi, dù là có cảm nhận xuất chúng, đồng thời dễ dàng quyến rũ mọi người.".[26] Ashida đã giành giải "Diễn viên mới xuất sắc nhất" tại Lễ trao giải Blue Ribbon lần thứ 54. Cô là người trẻ nhất nhận được giải thưởng này, đánh bại kỷ lục năm 1983 của nữ diễn viên Harada Tomoyo.[27]
Vào tháng 10 năm 2011, Ashida bắt đầu đồng tổ chức chương trình trò chuyện và tạp kỹ NTV Meringue no Kimochi với những MC lâu năm của chương trình, Hisamoto Masami và Ito Asako. Điều này khiến cô trở thành người dẫn chương trình thường lệ trẻ nhất của một chương trình trò chuyện hoặc tạp kỹ.[28]
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2011, có thông báo rằng Ashida sẽ ra mắt âm nhạc solo với Universal Music.[29] Cô đã phát hành đĩa đơn đầu tiên vào tháng 10 năm 2011 và album đầu tay của cô vào cuối năm 2011.[30] Album có những bài hát mà "Mama (mẹ của Mana) muốn Mana-chan hát".[30] Hồ sơ chính thức của cô ấy trên trang web của Universal Music đã được tiết lộ trong buổi thông báo.[29] Đĩa đơn này, một bản nhạc dance sôi động với nhịp điệu vui vẻ và tương tự như Maru–Maru–Mori-Mori!, mang tên "Sutekina Nichiyōbi: Gyu Gyu Good Day!". Đĩa đơn được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 26 tháng 10 năm 2011 và được sử dụng trong quảng cáo cho Seven & I Holdings Co.[31] Nó ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng hàng tuần của Oricon.[32] Điều đó khiến Ashida Mana trở thành nghệ sĩ solo trẻ tuổi nhất lọt vào bảng xếp hạng TOP10 hàng tuần của Oricon vào tuần ra mắt, khi mới 7 tuổi 4 tháng, phá vỡ kỷ lục trước đó là 13 tuổi do Goto Kumiko thiết lập vào năm 1987.[33]
Album đầu tay của Ashida, mang tên Happy Smile!, được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 23 tháng 11 năm 2011.[32] Nó ra mắt ở vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng hàng tuần của Oricon, đưa Mana Ashida trở thành nghệ sĩ trẻ nhất, 7 tuổi 5 tháng, có một album ở vị trí top 10.[34] Cô đã đánh bại kỷ lục trước đó là 13 năm 8 tháng do ca sĩ người Canada Rene Simard lập vào năm 1974.[34]
Ashida và Suzuki đã trở thành những người trẻ tuổi nhất tham gia cuộc thi hát Kōhaku Uta Gassen hàng năm khi tham gia phiên bản thứ 62 của nó.[3]
Ashida lồng tiếng cho nhân vật nữ chính Annie trong bộ phim hoạt hình Nhật Bản chuyển thể từ loạt phim Magic Tree House và là vai diễn đầu tiên trong năm 2012.[35] Cô ấy đã hát ca khúc mở đầu của bộ anime Jewelpet Kira☆Deco!.[36] Bài hát mang tên "Zutto Zutto Tomodachi", cũng được sử dụng trong bộ phim hoạt hình năm 2012 Jewelpet the Movie: Sweets Dance Princess. Ashida cũng xuất hiện trong phim với vai Công chúa Mana.[37] Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 16 tháng 5 năm 2012, và đạt vị trí thứ 17 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon.[38]
Ashida đóng vai Kinoshita Miu, người con gái tuổi vị thành niên của một ông bố đơn thân mắc bệnh Alzheimer, trong bộ phim truyền hình mùa hè Beautiful Rain của Fuji TV.[39] Cô cũng đã trình bày ca khúc chủ đề của phim, mang tên "Ame ni Negai o".[40] Được viết bởi nhạc sĩ Matsutoya Yumi, Ame ni Negai o là bài hát nhạc phim truyền hình đầu tiên Mana biểu diễn solo.[40] Đĩa đơn được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 8 năm 2012.[41]
Vào ngày 27 tháng 12 năm 2012, cô đã tổ chức buổi biểu diễn ca nhạc solo đầu tiên của mình tại Curian Shinagawa General Citizen Hall ở Tokyo.[42]
Ashida ra mắt tại Hollywood với vai Mori Mako thời trẻ trong bộ phim Siêu đại chiến năm 2013.[43] Cô đã thử vai vào tháng 10 năm 2011, khi đó cô ấy đã gây ấn tượng với ban giám khảo bằng khả năng biểu cảm phong phú của mình.[43] Cô đến Toronto để quay bộ phim, nơi cô gặp được đạo diễn Guillermo del Toro. Del Toro đã cho phép Ashida gọi ông là "Totoro-san", do cô không thể phát âm họ của ông.
Ashida cũng xuất hiện trong Phiên bản trẻ em của chương trình Ai là triệu phú?! bản tiếng Nhật vào ngày 2 tháng 1 năm 2013. Cô đã giành được giải thưởng cao nhất, 1.000.000 yên và trở thành người chiến thắng trẻ tuổi nhất trong chương trình này.[44]
Năm 2014, Ashida đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Ashita, Mama ga Inai với vai Post, một đứa trẻ bị bỏ rơi khi mới chào đời.[45] Diễn xuất của cô trong bộ phim truyền hình này được đánh giá cao, với 50,8% người xem bày tỏ sự hài lòng cao với diễn xuất của cô trong một cuộc khảo sát do Oricon thực hiện.[46] Năm 2015, cô đóng vai chính trong Rugged! với vai chủ tịch công ty 10 tuổi và là vai chính đầu tiên của cô trong một phim truyền hình của đài NHK.[47]
Vào tháng 4 năm 2017, Ashida được nhận vào trường trung học cơ sở Keio, một trong những trường trung học cơ sở nổi tiếng nhất ở khu vực Đại Tokyo, sau khi vượt qua kỳ thi tuyển sinh.[48]
Vào tháng 3 năm 2023, Ashida đã tốt nghiệp trường cấp ba Keio.[49]
^ abc愛菜ちゃん&福くん、紅白史上最年少出場「がんばって歌います」 (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 30 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2011.
^“芦田愛菜 : KARAダンス披露にベストファーザーの中山ヒデもメロメロ”. Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd (bằng tiếng Nhật). MANTAN WEB. 7 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2011.
^ ab才子役・芦田愛菜、東国原宮崎県知事を史上最年少表敬訪問 (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 1 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
^ ab相武紗季&芦田愛菜「唐山大地震」声優で初"競演" (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 29 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
^ ab芦田愛菜 :次は連ドラ初主演 阿部サダヲとフジ日9「マルモのおきて」で. Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd (bằng tiếng Nhật). MANTAN WEB. 2 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
^篠田麻里子が映画初主演!"天才犬"ビリーと息ピタリ. The Hochi Shimbun. (bằng tiếng Nhật). Sports Hochi. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
^ ab天才子役・芦田愛菜「あこがれ」の宮本信子と共演...映画「阪急電車」. The Hochi Shimbun. (bằng tiếng Nhật). Sports Hochi. 28 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
^松山ケンイチ、映画「うさぎドロップ」で"イクメン"役に初挑戦 (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 5 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2011.
^ ab松山ケンイチ、映画「うさぎドロップ」で"イクメン"役に初挑戦 (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 5 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
^Schilling, Mark (19 tháng 8 năm 2011). “Usagi Doroppu (Bunny Drop)”. Japan Times. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011.
^ ab芦田愛菜、7歳最年少司会...日テレ「メレンゲの気持ち」. The Hochi Shimbun. (bằng tiếng Nhật). Sports Hochi. 2 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2011.
^ abマルモリに続け! 芦田愛菜が10月ソロデビュー. Oricon, Inc. (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2011.
^ ab芦田愛菜、10月に本格歌手デビュー&カバー曲募集中. Natasha,Inc. (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2011.
^芦田愛菜、ソロではギュギュっとダンス!行楽弁当の監修も任される (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 23 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011.
^ abc芦田愛菜に竹内まりや&岸谷香が新曲提供. Oricon, Inc. (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011.
^愛菜ちゃんの2012年ニューシングル発売決定!! (bằng tiếng Nhật). Universal Music. 16 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
^芦田愛菜、新曲&"指きりダンス"初披露 (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. 31 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
^ずっとずっとトモダチ (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
^ abc芦田愛菜の新曲はユーミン提供 「たいせつに歌っていきたい」 (bằng tiếng Nhật). Oricon, inc. 21 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
^“芦田愛菜、初コンサートでAKB人気曲を完コピ” (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. 27 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012.
^ abc“芦田愛菜、ハリウッドデビュー! SF大作に出演” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 14 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2012.
^ 初春クイズ始め!ファイナルアンサー大復活SP. Quiz $ Millionaire (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 1 năm 2013. Fuji TV.
^芦田愛菜の演技に好評価『明日、ママがいない』. Oricon (bằng tiếng Nhật). 8 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.
^ ab芦田愛菜 NHKドラマ初主演!10歳でいきなり社長に. Sports Nippon Newspapers (bằng tiếng Nhật). 5 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2015.
^スマイル封印!愛菜ちゃん、初の"悪役". Sankei Digital Inc (bằng tiếng Nhật). Sankei Sports. 18 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2011.
^天才子役・芦田愛菜が歌手デビュー!. Sankei Digital Inc. (bằng tiếng Nhật). Sanspo. 4 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
^前田敦子、"マルモ"愛菜ちゃん&福くんとコラボ共演. The Hochi Shimbun. (bằng tiếng Nhật). Sport Hochi. 30 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
^この世界の片隅に :戦時下の日常描いた話題のマンガ 北川景子主演でドラマ化. Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd (bằng tiếng Nhật). MANTAN WEB. 13 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2011.
^毎年恒例、今年は12周年。 初ホラー出演の超豪華出演者がそろい踏み!. Fuji Television Network, Inc. (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2011.
^「マルモのおきて」スペシャル番組10・9放送. SPORTS NIPPON NEWSPAPERS. (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
^ライアーゲーム :芦田愛菜主演のスピンオフドラマ 3月に4夜連続放送. Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
^『銀二貫』林遣都さんほか、出演者からのメッセージ. NHK (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2014.
^山本耕史、19年ぶり野島作品に感慨「なんとも言えない安心感」. Oricon, Inc. (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016.
^鶴瓶「怪盗グルー」吹き替えで芦田愛菜と再タッグ (bằng tiếng Nhật). Natasha,Inc. 4 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2015.
^『二ノ国 白き聖灰の女王』発売日決定!声優に芦田愛菜ちゃん (bằng tiếng Nhật). Gpara.com. 25 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011.
^愛菜ちゃん 2年ぶり歌手活動再開 (bằng tiếng Nhật). Daily Sports, inc. 30 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2014.
^芦田愛菜、7歳で主演女優賞「東京ドラマアウォード」 (bằng tiếng Nhật). eiga.com. 25 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2011.
Nope là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại kinh dị xen lẫn với khoa học viễn tưởng của Mỹ công chiếu năm 2022 do Jordan Peele viết kịch bản, đạo diễn và đồng sản xuất dưới hãng phim của anh, Monkeypaw Productions
Dù bạn vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường, hay đã bước vào đời, hy vọng rằng 24 tập phim sẽ phần nào truyền thêm động lực, giúp bạn có thêm can đảm mà theo đuổi ước mơ, giống như Chu Tư Việt và Đinh Tiễn vậy