Bark at the Moon (bài hát)

"Bark at the Moon"
Đĩa đơn của Ozzy Osbourne
từ album Bark at the Moon
Mặt B"One Up the "B" Side"
Phát hành12 tháng 11 năm 1983 (L.H.Anh) [1]
Thu âm1983
Thể loại
Thời lượng4:17
Hãng đĩaJet
Sáng tác
Sản xuấtMax Norman
Thứ tự đĩa đơn của Ozzy Osbourne
"Iron Man/Children of the Grave"
(1983)
"Bark at the Moon"
(1983)
"So Tired"
(1983)
Video âm nhạc
"Bark at the Moon" trên YouTube

"Bark at the Moon" là một bài hát của ca sĩ heavy metal người Anh Ozzy Osbourne. Đây là đĩa đơn đầu tiên được phát hành trích từ album cùng tên ra mắt năm 1983 của ông. Video âm nhạc (MV) sản xuất cho ca khúc là MV đầu tiên của Osbourne. Bài hát lần lượt vươn lên các thứ hạng cao nhất là vị trí số 21 trên UK Singles Chart và số 12 trên bảng xếp hạng Album Rock Tracks của Billboard. Bài hát nhận được sự tán dương từ giới phê bình, thường được bầu là một trong những bài hát hay nhất của Ozzy.[2][3][4][5]

Thông tin

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi công sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù được chính thức ghi công cho một mình Osbourne, "Bark at the Moon" lại được đồng sáng tác bởi tay guitar Jake E. Lee và tay bass/sáng tác lời Bob Daisley. Lee cho biết ông bị vợ kiêm quản lý của Osbourne là Sharon dọa sa thải nếu ông từ chối ký vào một bản hợp đồng vào năm 1983 ghi rằng ông sẽ từ bỏ quyền sáng tác và xuất bản.[6] Năm 2003, Daisley đâm đơn kiện chống lại nhà Osbourne, yêu cầu đền bù phí tổn cho những đóng góp sáng tác đáng kể của ông.

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Về mặt lời, bài hát nói về một sinh vật nọ từng khủng bố một thị trấn, bị giết rồi sau đó bí ẩn trở lại một lần nữa để tàn phá ngôi làng. Tuy nhiên video âm nhạc (MV) lại chủ yếu vay mượn từ câu chuyện kinh điển Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde của Robert Louis Stevenson, miêu tả Osbourne là một "nhà khoa học điên" uống một chất lạ trong phòng thí nghiệm của mình, làm ông biến thành người sói như được miêu tả trên bìa của album Bark at the Moon. Do bị người đời phán là kẻ mất trí, sau đó ông được đưa nhập viện tâm thần. Các hiệu ứng hóa trang được xử lý bởi Rick Baker (nổi tiếng nhất nhờ công việc hóa trang trong An American Werewolf in London của John Landis và MV cho bài hát Thriller của Michael Jackson).

MV bài hát được ghi hình một phần ở Viện dưỡng lão Holloway, ngoại ô Luân Đôn, Anh.[7] Ở đầu thập niên 1980 – thời kì tiếp thị bằng video âm nhạc, MV "Bark at the Moon" là MV đầu tiên của Osbourne, rất được công chúng mong đợi bởi phần hình ảnh táo bạo của ông. Tay trống Tommy Aldridge chơi nhạc trong phòng thu để ghi âm bài hát, nhưng trong MV vị trí của anh trong ban nhạc bị thay thế bởi Carmine Appice.

Các bản hát lại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào dịp Giao thừa năm 1983, một cậu thanh niên người Canada tên James Jollimore đã sát hại một phụ nữ cùng hai con trai cô tại Halifax, Nova Scotia sau khi nghe bài hát "Bark at the Moon". Một người bạn của tên sát nhân cho hay: "Jimmy nói rằng mỗi lần nghe bài hát là anh ấy cảm thấy trong người mình thật lạ... Anh ấy nói rằng khi nghe bài hát vào đêm Giao thừa, anh đã đi ra ngoài và đâm chết người".[8][9]

Đội hình thể hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng (1983) Vị trí
cao nhất
Anh Quốc (OCC)[10] 21
US Bubbling Under Hot 100 Singles (Billboard)[11] 109
Mainstream Rock (USA)[12] 12

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Ozzy Osbourne singles”. Dutchchart. Truy cập 4 tháng 8 năm 2021.
  2. ^ December 3, Sterling WhitakerPublished; 2012. “Top 10 Ozzy Osbourne Songs”. Ultimate Classic Rock (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  3. ^ “The 10 Best Ozzy Osbourne Solo Songs”. Kerrang!. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  4. ^ “Ozzy Osbourne's 20 Best Solo Songs, Ranked”. SPIN. 20 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ December 3, Chad ChildersPublished; 2012. “10 Best Ozzy Osbourne Solo Songs”. Loudwire (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ “Jake E. Lee: Why I Gave Up Songwriting Credit for Ozzy Osbourne's 'Bark at the Moon'. Blabbermouth.net. 10 tháng 12 năm 2014. Truy cập 14 tháng 12 năm 2014.
  7. ^ “Ozzy Osbourne”. Simon Fowlers.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2012.
  8. ^ Michael Newton. Crime Fighting and Crime Prevention. Library Binding. tr. 101. ISBN 978-1-60413-629-6.
  9. ^ McIver, Joel (11 tháng 8 năm 2014). Sabbath Bloody Sabbath. United Kingdom: Omnibus Press1. ISBN 978-1-78323-127-0.
  10. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 5 tháng 4 năm 2013.
  11. ^ “Ozzy Osbourne – Chart History: Bubbling Under Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập 5 tháng 4 năm 2013.
  12. ^ “Mainstream Rock”. Billboard. Truy cập 5 tháng 7 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Kỹ thuật Feynman có thể giúp bạn nhớ mọi thứ mình đã đọc
Nhà vật lý đoạt giải Nobel Richard Feynman (1918–1988) là một chuyên gia ghi nhớ những gì ông đã đọc
Xilonen – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xilonen – Lối chơi, hướng build và đội hình
Là một support với nhiều tiềm năng và liên tục được buff, Xilonen đã thu hút nhiều chú ý từ những ngày đầu beta
Pháp quốc Slane (スレイン法国) - Overlord
Pháp quốc Slane (スレイン法国) - Overlord
Pháp quốc Slane (スレイン法国) là quốc gia của con người do Lục Đại Thần sáng lập vào 600 năm trước trong thế giới mới.
Paimon từng là Công chúa Đảo Thiên Không
Paimon từng là Công chúa Đảo Thiên Không
Vương miện Trí thức - mảnh ghép còn thiếu trong giả thuyết Paimon từng là Công chúa Đảo Thiên Không