Tại Đại Tây Dương, loài cá đuối này ở vùng biển của Argentina và trong vùng nước quanh quần đảo Falkland. Người ta ghi nhận rằng chúng sống ở vùng nước có độ sâu ít nhất là 51 mét[3], ở độ sâu 250 thì chúng xuất hiện thường xuyên.
Các báo cáo gần đây cho thấy độ dài xấp xỉ mà nó có thể đạt được là 130 cm, lớn nhất là 157 cm. Còn phần thân cá thì không thể nào lớn hơn chiều dài cơ thể và độ dài lớn nhất của phần này là 90 cm.[4]
Bề mặt lưng của nó thì có màu nâu sậm, bao quanh là răng cưa nhưng không có gai. Phần bụng thì có màu hơi vàng và ở gần đuôi thì có những đốm màu tối. Cái đuôi này thì có từ 19 đến 27 cái gai lớn.[5]
Loài này triển rất chậm[1], chỉ tăng từ 4 đến 6 cm trong 1 năm[4], chậm hơn hầu hết các loài cùng chi[1]. Chúng phát dục vào năm tuổi thứ 18 đối với con đực và 14 đối với con cái.[4]
Thức ăn của yếu của Bathyraja griseocauda là Amphipodađộng vật giáp xác và các loại giun biển. Bên cạnh đó, những cá thể lớn hơn còn ăn cả các loài cá đuối nhỏ hơn, cá có vây và động vật thân mềm.[6]
^Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2012). Bathyraja griseocauda trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2012.
^ abcArkhipkin, A.I. (2008). N. Baumgartner, P. Brickle, V.V. Laptikhovsky, J.H.W. Pompert, and Z.N. Shcherbich. “Biology of the skates Bathyraja brachyurops and B. griseocauda in waters around the Falkland Islands, Southwest Atlantic”. ICES Journal of Marine Science. 20: 189–193. doi:10.1093/icesjms/fsn015.
^Llano, G.A.; Wallen, I.E. (1971). Biology of the Antarctic Seas IV. Antarctic Fisheries Series, vol 17. American Geophysical Union: Washington D.C.
^Brickle, P.; V. Laptikhovsky; J. Pompert; A. Bishop. “Ontogenetic changes in the feeding habits and dietary overlap between three abundant rajid species on the Falkland Islands' shelf”. Journal of the Marine Biological Association of the United Kingdom. 83: 1119–1125. doi:10.1017/s0025315403008373h.