Believe là album phòng thu thứ 22 của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Cher, phát hành ngày 22 tháng 10 năm 1998 bởi Wea và được phân phối tại Bắc Mỹ bởi Warner Bros.. Sau thất bại của album phòng thu trước, It's a Man's World (1995), hãng đĩa của cô đã khuyến khích nữ ca sĩ trở lại phòng thu để theo đuổi một định hướng hướng âm nhạc mới. Quá trinh ghi âm cho album đã được diễn ra vào mùa hè năm 1998 tại Dreamhouse Studios ở London và Soundworks Studios ở New York dưới sự chỉ đạo của hai nhà sản xuất Anh là Mark Taylor và Brian Rawling. Album là một lời tri ân của Cher đến người chồng cũ của cô là Sonny Bono, người đã qua đời vào đầu năm đó.
Believe đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn về mặt âm nhạc so với những tác phẩm trước của cô, bao gồm việc kết hợp giữa dance-pop và Eurodance, bên cạnh nhiều thể loại nhạc khác nhau như techno, house, disco và Latin với nội dung lời bài hát đề cập đến những chủ đề như tự do, Chủ nghĩa cá nhân và những mối quan hệ tình cảm. Nó cũng áp dụng nhiều kỹ thuật công nghệ ghi âm mới của thời đại, như việc sử dụng AutoTune, và sau này đã trở nên phổ biến với tên gọi " hiệu ứng Cher ".[1] Sau khi phát hành, album nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, những người đánh giá cao màn trình diễn thanh nhạc của Cher, trong khi chỉ thích quá trình sản xuất tổng thể của nó. Believe đã nhận được ba đề cử giải Grammy tại lễ trao giải thường niên lần thứ 42, bao gồm Album Pop xuất sắc nhất, Thu âm của năm và Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất cho bài hát chủ đề, và chiến thắng giải sau cùng.
Về mặt thương mại, Believe đã gặt hái nhiều thành công vượt trội, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Áo, Canada, Đan Mạch, Đức, New Zealand và Bồ Đào Nha, và lọt vào top 5 ở Bỉ, Phần Lan, Pháp, Hungary, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, cũng như lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia khác. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA), công nhận bốn triệu bản đã được tiêu thụ tại đây. Đây được xem là album thành công nhất trong sự nghiệp âm nhạc của Cher, với doanh số tiêu thụ trên toàn cầu được ước tính là 10 triệu bản.[2]
Bốn đĩa đơn được phát hành từ album. Đĩa đơn đầu tiên, "Believe", đã trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại với 10 triệu bản và đứng đầu các bảng xếp hạng ở 23 quốc gia.[3] "Strong Enough" được phát hành như là đĩa đơn thứ hai từ album, và lọt vào top 5 ở nhiều thị trường như Áo, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Hai đĩa đơn cuối cùng, "All or Nothing" và "Dov'è l'amore" chỉ gặt hái những thành công khiêm tốn trên các bảng xếp hạng. Để quảng bá cho Believe, Cher thực hiện chuyến lưu diễn thứ sáu trong sự nghiệp của cô với tên gọi Do You Believe? Tour đã trở thành một trong những chuyến lưu diễn đạt doanh thu cao nhất của một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ.
^Frere-Jones, Sasha (ngày 9 tháng 6 năm 2008). “The Gerbil's Revenge”. The New Yorker. Condé Nast. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2012. In the manual accompanying Auto-Tune’s fifth-release version, the zero speed setting is described as 'the Cher Effect.'
^“Best-selling Albums”. Austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2010.
^“Discos de Oro y Platino” (bằng tiếng Tây Ban Nha). CAPIF. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
Bối cảnh Summer Pocket được đặt vào mùa hè trên hòn đảo Torishirojima. Nhân vật chính của chúng ta, Takahara Hairi sống ở thành thị, nhưng vì một sự việc xảy ra nên anh mượn cớ cái chết gần đây của bà ngoại để đến hòn đảo này với lí do phụ giúp người dì dọn dẹp đồ cổ của người bà quá cố
Tao Fa (Đào Hoa Pháp, bính âm: Táo Huā) là một nhân vật phản diện chính của Thiên đường địa ngục: Jigokuraku. Cô ấy là thành viên của Lord Tensen và là người cai trị một phần của Kotaku, người có biệt danh là Đại hiền triết Ratna Ratna Taisei).