Biên niên ký chim vặn dây cót | |
---|---|
ねじまき鳥クロニクル Nejimaki-dori kuronikuru | |
Thông tin sách | |
Tác giả | Murakami Haruki |
Minh họa bìa | Hữu Khoa |
Quốc gia | Nhật Bản |
Ngôn ngữ | Tiếng Nhật |
Thể loại | Tiểu thuyết |
Nhà xuất bản | Shinchosha (bản tiếng Nhật) / Vintage (bản tiếng Anh) / Nhà xuất bản Hội nhà văn (bản tiếng Việt) |
Ngày phát hành | 1994-5 |
Kiểu sách | Sách in (Bìa mềm) |
Số trang | 607 trang |
ISBN | 0-679-77543-9 |
Cuốn trước | Phía nam biên giới, phía tây mặt trời |
Cuốn sau | Đường xe điện ngầm |
Bản tiếng Việt | |
Người dịch | Trần Tiễn Cao Đăng |
Biên niên ký chim vặn dây cót (ねじまき鳥クロニクル Nejimaki-dori Kuronikuru) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Murakami Haruki. Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng dịch dựa theo bản tiếng Anh The Wind-up Bird Chronicle của Jay Rubin và bản dịch tiếng Nga Хроники Заводной Птицы của Sergey Logachev và một số đối chiếu với nguyên tác tiếng Nhật. Bản tiếng Việt được ấn hành lần đầu năm 2007.
Bản gốc tiếng Nhật được phát hành theo ba phần, tạo nên ba "quyển" trong bản tiếng Việt.
Với tiểu thuyết này, Murakami nhận được Giải thưởng Văn học Yomiuri, do nhà phê bình khó tính nhất của ông trước đây, Kenzaburo Oe.
Nội dung của bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt được tóm tắt như sau:
Phần thứ nhất (Chim ác là ăn cắp), bắt đầu bằng việc Toru Okada, đang thất nghiệp, được vợ là Kumiko lệnh cho phải tìm được con mèo mất tích của họ. Kumiko gợi ý rằng việc tìm kiếm nên bắt đầu ở khu vực hàng xóm xung quanh, nhất là khoảng đất bỏ hoang phía sau nhà anh. Sau nhiều lần thử tìm mà không được, Toru gặp Kasahara May, cô bé đã nhiều lần thấy anh trèo ra trèo vào chỗ đất xung quanh, đâm ra tò mò và đặt cho anh nhiều câu hỏi. Rồi May mời Toru qua nhà cô, cùng ngồi trò chuyện ở hàng hiên và hứa sẽ tìm giúp con mèo cho anh. Cuộc trò chuyện cũng hé lộ nhiều tình tiết về "Những vận dớp trong căn nhà bị bỏ hoang" (Nhà của gia đình Miyawaki- bị vỡ nợ, cả nhà tự sát) mà Toru trèo vào tìm con mèo trong đó. Toru cũng nhận được những cuộc điện thoại lạ của một người phụ nữ có vẻ như đang muốn khiêu khích tình dục anh.
Toru thất bại trong việc tìm kiếm chú mèo, Kumiko đành nhờ sự giúp đỡ của anh trai mình, Wataya Noboru. Gia đình của cô (mặc dù cô ít tin) hoàn toàn tin vào chiêm tinh và bói toán. Noboru nhờ Kano Malta, và người em gái phụ việc của mình, Kano Creta, giúp Toru trong việc tìm mèo bị mất nhờ tài tiên tri của 2 người họ. Malta và Creta lần lượt gặp Toru đồng thời kể cho anh nghe việc Creta bị Noboru hãm hiếp. Bên cạnh đó, Toru để ý thấy Kumiko mặc một chiếc váy mới và có một lọ nước hoa hiệu Chrisrtian Dior được tặng từ một người mà anh không quen. Con mèo vẫn mất tích. Và phần một kết thúc bằng việc cụ Honda chết, để lại cho Toru một chai whisky hiệu Cutty Sark rỗng và Trung úy Mamiya đến kể cho anh nghe về những chuyện ông đã trải qua trong chiến tranh.
Kumiko đã bỏ đi ở ngay đầu phần hai (Chim tiên tri). Ít ngày sau, Toru được mời đến gặp Noboru và Malta để nhận thông báo rằng Kumiko đã bỏ đi với nhân tình và không còn cần anh. Thất vọng, Toru quyết định thử nhiều cách để trấn tĩnh bản thân và tìm ra một giải pháp: Đi làm cùng Kasahara May, chui xuống ngồi dưới đáy giếng khô, đi "xem mặt thiên hạ" trong thành phố. Công việc anh làm cùng Kasahara May là phân loại người hói đầu- anh từng làm một lần cũng với cô ở phần 1. Khi ngồi dưới đáy giếng khô (của căn nhà bỏ hoang), anh nghĩ về khoảng thời gian có với Kumiko, gồm cả lần hẹn hò đầu tiên khi hai người đi công viên Thủy cung ngắm "Thế giới sứa". Anh có trải nghiệm dạng xuất thần khi cảm thấy mình đi vào một khách sạn và được một "người đàn ông không mặt"(ngoại hình khá giống Slender Man, tuy nhiên anh có tóc, tay chân bình thường, ăn nói lịch sự, không làm hại ai và không có xúc tu) dẫn vào phòng 208 để trò chuyện với một người phụ nữ trong bóng tối, anh cũng bị một vết bầm lạ trên mặt khi ra khỏi giếng sâu. Toru cũng cảm thấy dường như mình đã làm tình trong mơ với Kano Creta (khi đó lại mặc váy áo của Kumiko) và sau đó là với Người phụ nữ gọi điện thoại ngay ở phòng 208. Creta sau đó xác nhận với Toru chuyện này, nói rằng đó là công việc mà chị Malta giao cho một con "điếm tinh thần" như cô và sau đó hai người đã làm tình thật (với Creta mặc quần áo cũ của Kumiko) trong nhà của anh. Hai người ngủ với nhau và Creta thể hiện ước muốn được đến đảo Crete để sống bên Toru. Khi đi "xem mặt thiên hạ" Toru ngồi trước một của hàng bán donut ở Shinjuku và gặp một người phụ nữ ăn mặc rất đẹp, đồng thời cũng nhận ra một ca sĩ hát dạo mà anh đã gặp ở Sapporo, Hokkaido cách đây ba năm. Toru lén bám theo người này nhưng bị anh ta đánh bằng một cây gậy bóng chày, Toru đánh lại và lấy cây gậy của anh ta.
Phần ba (Kẻ bắt chim) là phần cuối và cũng là phần dài nhất của tiểu thuyết, giới thiệu thêm một số nhân vật và đem đến một cái kết tương đối mở cho người đọc. May đã đi học ở một trường tư sau đó lại bỏ học và đến làm việc ở một nhà máy tóc giả theo giới thiệu của công ty cũ. Con mèo đi lạc gần một năm lại trở về và được Toru đặt tên là Cá thu.Toru mơ thấy anh gặp Kano Malta khỏa thân với cái đuôi mèo mà cô nói là lấy của Cá thu, rằng cái đuôi bây giờ của con mèo là giả, cô cũng nói rằng Kano Creta đã có con với anh, tên đứa bé là Corsia. Người phụ nữ ăn mặc đẹp Toru gặp ở cuối phần 2 tự xưng là Akasaka Nhục đậu khấu. Bà thuê Toru đến làm tại văn phòng "chỉnh lý" của bà vì cho rằng anh cũng có một "năng lực phục hồi" tương tự mình. Công việc này là hồi phục về mặt tinh thần cho những quý bà tuổi trung niên(một công việc khá kỳ lạ, bệnh nhân sẽ chạm vào Nhục đậu khấu để lấy được năng lượng tinh thần của bà, trong trường hợp của Toru thì lần đầu anh đã bị bịt mắt và một bệnh nhân nữ đến hôn và liếm lên vết bầm trên mặt anh, anh đã xuất tinh ngay trong quần lót, điều này khiến anh khá xấu hổ và cảm thấy mình như là một tên "điếm đực về tinh thần" trong lần đó). Đổi lại, Toru có đủ 80 triệu yên để mua lại căn nhà bị bỏ hoang của gia đình Miyawaki dưới danh nghĩa một công ty ma. Akasaka Quế, con trai của Nhục đậu khấu, giúp anh mở một văn phòng "chỉnh lý" mới tại đây và đào sâu thêm cái giếng. Vết bầm trên mặt Toru vẫn lan rộng mà không có lời giải thích. Ushikawa, thư ký của Noboru, nhiều lần đến gặp Toru để truyền đạt yêu cầu của Noboru rằng y muốn anh ngừng dính dáng tới mảnh đất. Toru dần có liên hệ về sự can dự cả gián tiếp lẫn trực tiếp của Noboru và nhà Wataya trong việc Kumiko bỏ đi. Toru cũng có cuộc trò chuyện ngắn với Kumiko qua Internet và lờ mờ đoán ra sự việc. Anh quay lại phòng 208, đối diện với người phụ nữ trong bóng đêm và nhận ra đó là Kumiko, anh quyết định phá vỡ lời nguyền để đưa cô trở về. Cùng lúc, TV trong khách sạn đưa tin Noboru đã bị một kẻ trông giống Toru đánh bất tỉnh bằng gậy bóng chày khi đang phát biểu trước dân chúng ở Akasaka. Đám đông trong khách sạn phát cuồng vì Noboru và truy sát Toru, nhưng "người đàn ông không mặt" đã tìm giúp anh một lối tắt để chạy về phòng 208. Tại đây, anh quyết định đối đầu với "kẻ tấn công cầm dao" để bảo vệ và đưa Kumiko về với anh. Toru đã giết hắn ta bằng gậy bóng chày nhưng bị đâm lại hai phát, một vào vai và một vào mặt- ngay chỗ vết bầm. Khi giết xong y thì lại không thấy Kumiko đâu nữa. Kiệt sức, anh thiếp đi và trở lại lòng giếng khô. Tỉnh dậy, anh nhận thấy cái giếng đã được thông, nước đang dâng dần lên, những vết đâm là có thật và vết bầm trên mặt đã biến mất. Toru lại có ảo giác rằng anh gặp được May và Creta, anh nhớ đến lời dặn của cụ Honda "Hãy cẩn thận với nước" và nghĩ mình sắp chết. Quế đã cứu được anh và ít ngày sau anh được Nhục đậu khấu cho hay là Noboru đã bị đột quỵ khi đang có bài phát biểu với tư cách của một dân biểu Hạ viện ở Nagasaki và đang phải sống thực vật. Kumiko quyết định ngắt thiết bị hỗ trợ sự sống để kết liễu hắn rồi viết một bức thư nói rằng mình vẫn ổn và giải thích rõ mọi chuyện xảy ra với mình gửi cho Toru. Sau đó cô đến tự thú với cảnh sát, ra tòa lãnh án tù, từ chối nhận bào chữa cũng như bảo lãnh tại ngoại. Cuối truyện, Toru đến thăm May, thổ lộ rằng anh vẫn đợi Kumiko trở về và mong rằng họ sẽ có một đứa con, anh sẽ đặt tên nó là Corsia. Kết thúc cuộc gặp, anh tạm biệt May và cố gắng chìm vào giấc ngủ.
Xen giữa các chương tường thuật sự việc chính là các bức thư của May gửi cho Toru trong thời gian xa cách, những đoạn ký ức về giai đoạn Mãn Châu quốc trong Thế chiến II của Trung úy Mamiya và Akasaka Nhục đậu khấu, câu chuyện bí ẩn về cậu bé và cái xẻng (ám chỉ Akasaka Quế) đồng thời là các bài báo ngầm nói về khả năng đặc biệt của Nhục đậu khấu cũng như việc kỳ lạ tại "căn nhà bị bỏ hoang" và những người chủ mới mua nó (chỉ Toru và công việc đào giếng của anh).
Lưu ý rằng đây là tóm tắt cốt truyện của bản dịch và ít nhiều đã chịu ảnh hưởng từ sự chỉnh sửa của các dịch giả, vì thế có thể nó sẽ không phản ánh được đầy đủ các sự kiện đã diễn ra trong bản gốc tiếng Nhật của tác giả.
Trong các nhân vật chính và phụ trong cuốn sách này, một số nhân vật quan trọng nhất gồm có:
Trong bản dịch của Jay Rubin, chương 15, quyển 2 bản tiếng Nhật, khi Toru chuẩn bị đi đảo Crete đã bị lược bỏ hoàn toàn. Trong chương này, anh thức dậy và thấy mình đang nằm cạnh Kano Creta, xuất hiện một cách bí ẩn từ đêm hôm trước trên giường của Toru. Cô nói mình đã quên hết ký ức cũ (trước khi gặp Toru), thậm chí cả tên thật của mình, và muốn cùng anh trốn khỏi Nhật Bản đến đảo Crete với cô. Toru đốt mọi kỷ vật bỏ lại của Kumiko và đi vào thị trấn mua một chiếc va li lớn. Anh đọc được một bài báo viết về Wataya Noboru, giờ đang cố gắng trở thành một chính trị gia. Phần lớn chương này là bài báo Toru đọc. Trong chương 17, Toru đã đi chụp ảnh cho hộ chiếu và gặp cậu của mình, người sau đó đã bày cho anh cách trấn tĩnh bằng việc "xem mặt thiên hạ" giữa phố đông. Cảnh này bị lược bỏ trong bản tiếng Anh nên người đọc nước ngoài sẽ không nắm được rõ nguyên nhân các hành động của Toru. Chương 18 bản tiếng Nhật đã bị lược bỏ hoàn toàn, nhưng vẫn giữ lại một số ý đưa vào các chương tiếp theo. Cảnh đối thoại giữa Toru và May được hợp nhất với cảnh tương tự trong chương 17, và lá thư của Trung úy Mamiya đã được dời sang chương 1, quyển 3. Các ý bị xóa của chương 18 bao gồm sự trở lại của Kano Crete, và Toru nói với cô về ý tưởng ở lại Nhật Bản. Toru cũng đi gặp May, hai người cùng ngắm cảnh phá hủy ngôi nhà cũ của gia đình Mamiya. Ý này nói rõ việc hợp pháp hóa chuyện Toru mua lại mảnh đất ở quyển 3. Toru đi bơi ở bể bơi công cộng và cảm thấy như mình đang trôi trong lòng giếng sâu cùng với việc nghe thấy tiếng đàn ngựa gào rống đến chết trong đêm nhật thực. Điều này làm Toru đoán ra người phụ nữ trong bóng tối ở phòng 208 chính là Kumiko, vợ anh. Quyển 2 gốc đã kết thúc bằng lời gợi ý cho quyển 3. Trong quyển ba bản tiếng Nhật, chương 1 vốn là chỉ lá thư của Karasaha May thì lại được ghép thêm với bức thư của Trung úy Mamiya, và chương hai bản tiếng Anh thì đã bị đổi vị trí. Chương 26 bản tiếng Nhật đã bị lược bỏ hoàn toàn, chương này Toru đã chat với Wataya Noboru, đe dọa sẽ phá hủy tham vọng điên cuồng của hắn ta (Có lẽ chính vì cuộc đối thoại này mà y mới căng thẳng dẫn đến đột quỵ). Bản tiếng Anh không có mục lục, nhưng nếu liệt kê các chương so với bản gốc ngang hàng cạnh nhau, thì các chương bị thiếu sẽ hiện rõ.[1][2]
Bản dịch tiếng Anh của Jay Rubin | Bản gốc của Murakami |
---|---|
14 Creta Kanō's new departure | 14 Creta Kanō's new departure |
15 The only bad thing... | 15 The right name, the things burned with salad
oil... |
16 The simplest thing...(hết quyển 2 tiếng Anh) | 16 The only bad thing... |
Không có | 17 The simplest thing... |
Không có | 18 Tidings from Crete, the things that fell...(hết quyển 2 tiếng Nhật) |
Bản dịch tiếng Anh của Jay Rubin | Bản gốc của Murakami |
---|---|
1 The Wind-Up Bird in Winter | 1 May Kasahara's Point of View |
2 Waking from Hibernation... | 2 The Mystery of the Hanging House |
3 What Happened in the Night | 3 The Wind-Up Bird in Winter |
4 Buying New Shoes... | 4 Waking from Hibernation... |
5 A Place You Can Figure Out If You
Think About It Really, Really Hard (May Kasahara's POV: 1) |
5 What Happened in the Night |
6 Nutmeg and Cinnamon | 6 Buying New Shoes... |
7 The Mystery of the Hanging House | 7 A Place You Can Figure Out If You
Think About It Really, Really Hard (May Kasahara's POV: 2) |
8 Down in the Well | 8 Nutmeg and Cinnamon |
9 The Zoo Attack (or, A Clumsy Massacre) | 9 Down in the Well |
24 The signal turns red... | 24 Counting sheep... |
25 Triangular ears... | 25 The signal turns red... |
26 The Wind-Up Bird Chronicle #8... | 26 Damaging things, ripe fruit |
27 Cinnamon's missing links | 27 Triangular ears... |
... | 28 The Wind-Up Bird Chronicle #8... |
... | 29 Cinnamon's missing links |
Jay cho rằng 60 trang của bản gốc bị lược bỏ chỉ chiếm khoảng 5% ý nghĩa của toàn bộ câu chuyện và sẽ không phá vỡ mạch truyện chính. Thế nhưng, một độc giả của tờ New York Times lại cho rằng những sửa đổi của ông đã làm mất đi tính toàn vẹn trong câu chuyện của Murakami. Tuy nhiên bản thân Murakami, đã cẩn thận đọc bản nháp của Jay từ năm từ năm 2000, lại đồng ý với cách chỉnh sửa này. Ông cho rằng sự chỉnh sửa của Jay là cần thiết đối với người đọc Anh ngữ cũng như là một sự thuận lợi lớn cho các dịch giả có ý định dịch lại tác phẩm từ bản tiếng Anh. Dù vậy vẫn có nhiều dịch giả không đồng tình với bản chỉnh sửa này và quyết định dịch sang ngôn ngữ của họ từ bản gốc chứ không phải dựa theo bản dịch của Jay Rubin.[3]
Một số biểu tượng của văn hóa đại chúng đã xuất hiện trong tác phẩm qua đối thoại của các nhân vật và những chi tiết ngẫu nhiên trong các chương:
Herb Alpert | Nghệ sĩ kèn Trumpet và nhà soạn nhạc người Mỹ, người sáng lập hãng thu âm "A&M Record". Trong truyện khi Toru hỏi Kano Malta về ấn tượng đầu tiên của cô với đảo Malta là gì? Cô trả lời rằng cô đã nghĩ đó là một nơi toàn cát như trong "The Maltese Melody" của Herb Alpert & The Tijuana Brass band. |
Allen Ginsberg | Nhà thơ Mỹ, một trong những thủ lĩnh của Thế hệ Beat của thập niên 1960. Theo Kano Malta thì cả Ginsberg và Keith Richards đều từng đến Malta để uống nước suối như cô.
Cần lưu ý rằng trong truyện ngắn "Kano Crete"「加納クレタ」(bản gốc của 2 nhân vật Kano Malta và Kano Crete trong Biên niên ký Chim vặn dây cót) Ginsberg và Keith Richards cũng đều được đề cập như thế này. |
Keith Richards | Lead guitar và đồng sáng lập của ban nhạc rock người Anh, The Rolling Stones, trong truyện anh được đề cập với cái tên Nhật là Kīsu richādo「キース・リチャード」. |
Ca khúc chủ đề của phim A Summer Place | Xuất hiện trong bộ phim tình cảm lãng mạn "A Summer Place" tháng 11 năm 1959, trước đó ca khúc từng được Percy Faith Orchestra phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 9 cùng năm và đã đứng đầu các bảng xếp hạng âm nhạc của Mỹ suốt từ lúc đó đến tận tháng 2 năm 1960.
Bài hát này được phát trong tiệm giặt là khi Toru đến lấy váy và áo cánh của vợ đã gửi giặt ở đấy và phát hiện Kumiko đã bỏ đi. Ca khúc cũng nhiều lần được nhắc tới trong cuốn Nhảy nhảy nhảy và tiểu thuyết đang viết dở "Những người đàn ông không có đàn bà" 「女のいない男たち」nói về một người đàn ông có vợ mới tự tử và nhớ lại người tình xưa. |
Andy Williams | Ca sĩ Mỹ nổi tiếng. Hát 2 ca khúc "Hawaiian Wedding Song" và "Canadian Sunset" cũng là những bài hát hay phát ở tiệm giặt là mà Toru thường đến. |
Robert Maxwell | Nhà soạn nhác người Mỹ, sáng tác bài "Ebb Tide"(Thủy triều lên xuống), 1 ca khúc phát ở tiệm giặt là đã gây nhiều suy nghĩ cho Toru. |
Burt Bacharach | Sáng tác ca khúc "Do You Know the Way to San Jose?" hát bới Dionne Warwick cũng từng được phát trong tiệm giặt. |
Toyota MR2 | Một chiếc xe thể thao 2 chỗ được Toyota sản xuất và bán từ năm 1984 đến năm 1999, Kano Crete đã tự tử bất thành bằng 1 chiếc xe loại này. |
Dairy Queen | Thường gọi là DQ, là một chuỗi cửa hàng ăn nhanh nay đã không còn hoạt động tại Nhật Bản, May và Toru từng 2 lần đến uống cà phê và ăn hambuger tại tiệm DQ trên phố Ginza. |
Waldszenen (Forest Scenes- Cảnh rừng cây) | Một album gồm chín bản solo piano ngắn của Robert Schumann phát hành năm 1850. Bản Vogel als Prophet (Bird as Prophet)- Chim tiên tri đã được Toru nghe thấy trên đài FM. Tác phẩm này cũng chính là cảm hứng cho quyển 2 của tác phẩm. |
Dunkin' Donuts | Chuỗi cửa hàng ăn nhanh của Mỹ thành lập năm 1948, đến cuối năm 1998 thì rút khỏi thị trường Nhật Bản. Toru đã 2 lần đi mua bánh rán và cà phê ở tiệm Dunkin' Donuts trên đường Shinjuku. Đây cũng là nơi anh ngồi để "xem mặt thiên hạ" và gặp được Akasaka Nhục đậu khấu. |
Osmond Brothers | Nhóm nhạc Mỹ nổi tiếng với ca sĩ Donny Osmond hát solo. Sau đổi tên thành The Osmond và khá thành công trong thập niên 1970.
Ushikawa trong lần gặp đầu tiên với Toru đã so sánh cuộc gặp gỡ của họ như 1 bài hát của Osmond Brothers. |
Melancholy | Tên bộ phim làm lại năm 1940 của Mỹ dựa theo phim Warteloo Brigde năm 1931, xuất hiện cùng với Auld Lang Syne, Robert Taylor và Vivien Leigh khi Kumiko nói chuyện với Toru ở cuối truyện. |
Bản dịch tiếng Anh đầu tiên The Wind-up Bird Chronicle được dịch bởi Jay Rubin. Do có sự khác nhau giữa ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Nhật nên bản dịch đã có một số điểm khá khác biệt so với bản gốc. Cũng có sự khác biệt giữa bản sách bìa cứng và bìa mềm của Nhật Bản. Điều này hầu như không được thể hiện trong các bản dịch tiếng Anh và các ngôn ngữ khác về sau. Nhiều dịch giả sau đó đã thử dịch lại bằng tiếng Anh-Mỹ hoặc tiếng Anh-Anh, nhưng bản dịch của Jay Rubin vẫn là bản phổ biến với người đọc nhất.
Bản tiếng Đức được dịch bởi Giovanni và Ditte Bandini, dựa theo bản dịch tiếng Anh.
Bản tiếng Thụy Điển Fågeln som vrider upp världen phát hành năm 2007, được dịch trực tiếp từ tiếng Nhật bởi Eiko và Yukiko Duke.
Bản tiếng Đan Mạch Trækopfuglens Krønike phát hành năm 2001, cũng được dịch trực tiếp từ tiếng Nhật bởi Mette Holm.
Bản tiếng Nga Хроники Заводной Птицы phát hành năm 2002 dịch bởi Sergei và Ivan Logachev.
Bản tiếng Hungary A kurblimadár krónikája dịch theo bản sách tiếng Nhật bìa cứng bởi György Erdős, phát hành năm 2009.
Bản tiếng Hy Lạp Το κουρδιστό πουλ được dịch bởi Leonidas Karatzas, dựa theo bản dịch tiếng Anh của Jay Rubin.
Bản tiếng Phần Lan Kronika ptaka nakręcacza được dịch trực tiếp từ tiếng Nhật bởi Anna Zielińska-Elliot.
Bản tiếng Séc Kronika ptáčka na klíček dịch theo bản gốc tiếng Nhật bởi Klára Macúchová, phát hành năm 2014.
Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng thực hiện dựa theo bản tiếng Anh The Wind-up Bird Chronicle của Jay Rubin và bản dịch tiếng Nga Хроники Заводной Птицы của Sergey Logachev và một số đối chiếu với nguyên tác tiếng Nhật.
Cũng nên chú ý rằng ngoài những sự khác biệt giữa bản tiếng Nhật và tiếng Việt, còn có những sự khác biệt giữa bản bìa cứng và bìa mềm bằng tiếng Nhật.
Khá thú vị khi để ý trong bản gốc, tên của nhân vật chính đều được viết theo chữ katakana chứ không phải kanji. Đây là một sự lựa chọn táo bạo của tác giả, và nó chuyển tải một thông điệp không thể thể hiện được khi dịch sang ngôn ngữ khác. Có lẽ nó có cùng lý do với việc tại sao tác giả không bao giờ mô tả hình dạng thật của Toru.
Ngôn ngữ | Dịch giả | Phát hành | Nhà xuất bản |
---|---|---|---|
Tiếng Anh- Mỹ | Jay Rubin | 21 tháng 10 năm 1997 | Knopf |
Tiếng Anh- Anh | Jay Rubin | Tháng 5 năm 1998 | Harvill Press |
Tiếng Đức | Giovanni, Ditte Bandini | 1998 | DuMont |
Tiếng Pháp | Corinne Atlan, Karine Chesneau | 04 Tháng 5 năm 2001 | Seuil |
Tiếng Italia | Antonietta Pastore | 1999 | Baldini & Castoldi |
Tiếng Tây Ban Nha | Lourdes Porta, Junichi Matsuura | 2001 | Tusquets Editores |
Tiếng Bồ Đào Nha | Maria João Lourenço | 2006 | Casa das Letras |
Tiếng Hà Lan | Yakobasu-Wes Tahoe Eindhoven | 2000–2003 | Atlas |
Tiếng Thụy Điển | Duke Eiko, Duke Yukiko | 2007 | Norstedts |
Tiếng Đan Mạch | Mette Holm | 2006 | Klim |
Tiếng Na Uy | Risvik Kari, Kjell Risvik | 1999 | Pax forlag |
Tiếng Phần Lan | Anna Zielińska-Elliot | 2004 | Wydawnictwo MUZA SA |
Tiếng Slovakia | Dana Hoshimoto | 2010–2012 | Slovart |
Tiếng Slovenia | Iztok ILC | 2014 | Mladinska knjiga |
Tiếng Hungary | Erdős György | 2009 | Geopen Könyvkiadó |
Tiếng Rumani | Angela Hondru | 2004 | Polirom |
Tiếng Nga | Иван Логачев, Сергей Логачев | 2005 | |
Tiếng Ukraine | Дзюб Іван Петрович | 2009 | |
Tiếng Litva | Jūratė Nauronaitė | 2007 | Baltos lankos |
Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ | Nihal Önol | 2005 | Doğan Kitap |
Tiếng Hebrew | 2005 | Kinneret Zmora-Bitan Dvir | |
Chữ Hán phồn thể | Yoriyuki Akiratama | Tháng 9 năm 1995, tháng 2 năm 1997 | 時報文化 |
Chữ Hán giản thể | Lin Shaohua | 1997 | |
Tiếng Hàn Quốc | Yoon Sung Won | Tháng 12 năm 1995 | 文学思想社 |
Tiếng Việt | Trần Tiễn Cao Đăng | 2007 | Nhà xuất bản Hội nhà văn |