Cá mú vân sóng

Cá mú vân sóng
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Cephalopholis
Loài (species)C. formosa
Danh pháp hai phần
Cephalopholis formosa
(Shaw, 1812)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Sciaena formosa Shaw, 1812

Cá mú vân sóng,[2] danh phápCephalopholis formosa, là một loài cá biển thuộc chi Cephalopholis trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1812.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh formosa trong tiếng Latinh có nghĩa là "xinh đẹp", hàm ý có lẽ đề cập đến các vân sọc màu xanh lam trên thân loài cá này.[3]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Lakshadweep vá bờ biển Ấn Độ, cá mú vân sóng trải dài về phía đông đến vùng biển các nước Đông Nam Á, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến bờ bắc Tây Úc.[1][4]

Sự xuất hiện của cá mú vân sóng đã được ghi nhận ở vịnh Ba Tư, tuy nhiên báo cáo này lại không có hình chụp mẫu vật.[5] Trong danh mục các loài cá mú của Parenti và Randall (2020) thì không thấy đề cập đến vùng biển này trong khu vực phân bố của cá mú vân sóng. Các tác giả cũng lưu ý rằng, cá mú vân sóng thường bị nhầm lẫn với cá mú than (C. boenak).[6]

Việt Nam, cá mú vân sóng được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa; hòn Mê (Thanh Hóa);[7] Đà Nẵng;[8] vịnh Vân Phong (Khánh Hòa)[9]quần đảo An Thới (Kiên Giang).[10]

Cá mú vân sóng sống trên các rạn viền bờ có nền đáy bùn hoặc san hô chết ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[11]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mú vân sóng là 34 cm.[11] Thân có màu nâu sẫm hoặc vàng nâu với các vân sọc màu xanh lam khắp cơ thể và các vây. Vùng mõm, ngực và cằm có nhiều chấm xanh cùng màu. Ngay góc nắp mang có một đốm đen lớn. Vây đuôi bo tròn.[12]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 15–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 47–51.[13]

Trong hai lần vào năm 2014 và 2020, người ta nhìn thấy những con cá mú có kiểu hình bất thường ở Djibouti. Qua quan sát thực địa, những con cá mú kể trên có kiểu hình tương đồng với cá mú vân sóng, tuy nhiên lại mang thêm một số đặc điểm của Cephalopholis oligosticta (như vây đuôi và vây lưng có thêm đốm xanh, vệt sọc xanh trên mõm ngay trước mắt).[14]

Cá mú vân sóng chưa từng được ghi nhận ở khu vực Biển Đỏ trước đó, nên có hai giả thuyết được đặt ra: cá mú vân sóng thực sự có mặt ở Biển Đỏ nhưng hiếm thấy, đã tạp giao với C. oligosticta (loài đặc hữu của Biển Đỏ), hoặc cả hai loài này đã lang thang đến một vị trí nào đó trong biển Ả Rập và tạp giao với nhau, cá bột sau đó theo hải lưu mà trôi dạt đến Djibouti.[14]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Do kích thước nhỏ mà cá mú vân sóng không phải loài được nhắm mục tiêu trong ngành ngư nghiệp, thường chỉ được đánh bắt thủ công.[1]Ấn Độ, cá mú vân sóng lại là loài cá thực phẩmcá cảnh có giá trị cao trong thương mại.[15]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Liu, M. & Ma, K. (2018). Cephalopholis formosa. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132743A100454878. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132743A100454878.en. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Võ Văn Quang (2018). “Đa dạng loài họ cá Mú (Serranidae) vùng biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 18 (4A): 101–113.
  3. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.
  4. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Sciaena formosa. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.
  5. ^ Tavakoli-Kolour, P.; Khatami, S.; Barkhordari, A.; Farhadi, A. (2015). “First record of Cephalopholis formosa (Shaw, 1812) (Perciformes: Serranidae) in the Persian Gulf” (PDF). Journal of Applied Ichthyology. 31 (1): 197–198. doi:10.1111/jai.12636.
  6. ^ Parenti, Paolo; Randall, John E. (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 53. ISSN 2458-942X.
  7. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  8. ^ Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Thị Tường Vi; Trần Thị Hồng Hoa; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Công Thịnh (2016). “Đa dạng thành phần loài và hiện trạng khai thác họ cá Mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 16 (4): 405–417. doi:10.15625/1859-3097/16/4/7506.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  9. ^ Võ Văn Quang, Trần Thị Hồng Hoa, Lê Thị Thu Thảo, Trần Công Thịnh (2015). “Đa dạng thành phần loài và kích thước khai thác của một số loài thuộc họ Cá mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Khánh Hòa” (PDF). Tạp chí Sinh học. 37 (1): 10–19. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  10. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cephalopholis formosa trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  12. ^ P. C. Heemstra, & J. E. Randall (1999). “Serranidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 2487. ISBN 92-5-104051-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  13. ^ Randall, Roger C.; Allen, Gerald R.; Steene (1997). Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 102. ISBN 0-8248-1895-4.
  14. ^ a b He, Song; Green, Alison L.; Samoilys, Melita A.; Moussa Omar, Youssouf; Berumen, Michael L. (2022). “Waif or hybrid? Observation records of rare coloration grouper in Djibouti”. Environmental Biology of Fishes. 105 (4): 531–536. doi:10.1007/s10641-022-01253-5. ISSN 1573-5133.
  15. ^ Deepti, V. A. I.; Shrikanya, K. V. L.; Sujatha, K. (2013). “Morphometric variation and allozyme electroporetic studies in hind grouper species of genus Cephalopholis (Epinephelidae) off Visakhapatnam, Central Eastern Coast of India” (PDF). International Journal of Science and Research. 6: 533–542.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Phân tích về nhân vật Yimir và mối quan hệ giữa tình cảnh của cô và Mikasa
Phân tích về nhân vật Yimir và mối quan hệ giữa tình cảnh của cô và Mikasa
Là một nô lệ, Ymir hầu như không có khả năng tự đưa ra quyết định cho chính bản thân mình, cho đến khi cô quyết định thả lũ heo bị giam cầm
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cho đến hiện tại Kenjaku đang từng bước hoàn thiện dần dần kế hoạch của mình. Cùng nhìn lại kế hoạch mà hắn đã lên mưu kế thực hiện trong suốt cả thiên niên kỉ qua nhé.
Con đường tiến hóa của tộc Orc (trư nhân) trong Tensura
Con đường tiến hóa của tộc Orc (trư nhân) trong Tensura
Danh hiệu Gerudo sau khi tiến hóa thành Trư nhân là Trư nhân vương [Orc King]
Đại cương về sát thương trong Genshin Impact
Đại cương về sát thương trong Genshin Impact
Các bạn có bao giờ đặt câu hỏi tại sao Xiangling 4 sao với 1300 damg có thể gây tới 7k4 damg lửa từ gấu Gouba