Plectropomus leopardus, các tài liệu tiếng Việt gọi là cá song da báo hoặc cá mú chấm bé, là một loài cá biển thuộc chi Plectropomus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1802.
P. leopardus sống tập trung ở những khu vực mà san hô phát triển phong phú trên các rạn viền bờ và trong đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 100 m;[14] cá con sống ở vùng nước nông hơn, thường trên nền đáy nhiều vụn san hô.[1]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. leopardus là 120 cm.[14] Loài này có đa dạng màu sắc, từ nâu đỏ, đỏ tươi cho đến xám nâu hoặc nâu lục. Màu sắc của chúng phụ thuộc vào hàm lượng carotenoid (như astaxanthin) trong cơ thể.[15]P. leopardus có thể nhanh chóng chuyển đổi qua lại giữa các màu, và thường xuất hiện các vệt đốm lớn khi đi săn mồi.[16]P. leopardus được phủ dày đặc các chấm xanh lam (trừ vùng bụng và dưới họng). Quanh ổ mắt có vòng viền màu xanh óng.
Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 89–99.[17]
P. leopardus mang giới tính đực từ khi còn là cá con, nhưng cũng có nhiều con đực là từ cá cái trưởng thành chuyển đổi giới tính thành (những con đực này được gọi là lưỡng tính tiền nữ).[18]
Loài này thường sinh sản theo đàn, từ khoảng 20 cho đến hàng trăm cá thể.[1] Theo quan sát ở rạn san hô Scott (Úc), cá đực khi vào thời điểm sinh sản (từ tháng 8 đến tháng 12) trở nên sẫm đen hơn ở rìa vây đuôi, vây lưng và vây hậu môn.[19]
Cũng ở ngoài khơi bờ đông Úc, P. leopardus và Plectropomus maculatus có thể tạp giao với nhau.[20][21]P. maculatus có kiểu hình chấm xanh khá giống với P. leopardus, nhưng các chấm ở vùng đầu của P. maculatus thường kéo dài thành những vạch ngắn (không có ở P. leopardus).[16]
P. leopardus có thể sống được đến ít nhất là 19 năm.[1]
P. leopardus được đánh bắt và xuất khẩu ở nhiều nơi trong phạm vi phân bố của chúng. Do nạn khai thác quá mức trong hơn 20 năm qua ở khu vực Đông Nam Á, chủ yếu nhắm vào những đàn sinh sản của P. leopardus mà loài này đang có nguy cơ suy giảm mạnh (đã được biết đến ở Philippines).[1]
Trong những năm gần đây, công nghệ sinh sản nhân tạo đối với P. leopardus đã thành công ở Trung Quốc. Thị trường nước này ưa chuộng những con cá có màu đỏ tươi, được bán với giá gấp đôi cá màu sẫm đen.[24]
^Maoka, Takashi; Sato, Wataru; Nagai, Hidetada; Takahashi, Toshiyuki (2017). “Carotenoids of Red, Brown, and Black Specimens of Plectropomus leopardus, the Coral Trout (Suziara in Japanese)”. Journal of Oleo Science. 66 (6): 579–584. doi:10.5650/jos.ess16179. ISSN1347-3352. PMID28515376.
^Adams, S. (2003). “Morphological ontogeny of the gonad of three plectropomid species through sex differentiation and transition”. Journal of Fish Biology. 63 (1): 22–36. doi:10.1046/j.1095-8649.2003.00098.x.
^Frisch, A.; Van Herwerden, L. (2006). “Field and experimental studies of hybridization between coral trouts, Plectropomus leopardus and Plectropomus maculatus (Serranidae), on the Great Barrier Reef, Australia”. Journal of Fish Biology. 68 (4): 1013–1025. doi:10.1111/j.0022-1112.2006.00977.x. ISSN0022-1112.
^van Herwerden, L.; Choat, J. H.; Dudgeon, C. L.; Carlos, G.; Newman, S. J.; Frisch, A.; van Oppen, M. (2006). “Contrasting patterns of genetic structure in two species of the coral trout Plectropomus (Serranidae) from east and west Australia: introgressive hybridisation or ancestral polymorphisms”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 41 (2): 420–435. doi:10.1016/j.ympev.2006.04.024. ISSN1055-7903. PMID16806990.
^Frisch, Ashley J. (2006). “Are juvenile coral-trouts (Plectropomus) mimics of poisonous pufferfishes (Canthigaster) on coral reefs?”. Marine Ecology. 27 (3): 247–252. doi:10.1111/j.1439-0485.2006.00103.x. ISSN0173-9565.
^Chen, K.-S.; Wen, C. K.-C. (2018). “The predator's new clothes: juvenile Plectropomus maculatus, a mimic of Scolopsis monogramma”. Coral Reefs. 37 (4): 1241–1241. doi:10.1007/s00338-018-01746-9. ISSN1432-0975.
Hình như mọi người đều nghĩ Harry Potter thích hợp nhất ở nhà Gry và cảm thấy tất cả mọi yếu tố tính cách của Harry đều chính minh cho một Gry thực thụ