Quần đảo Marshall

Quần đảo Marshall
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Quần đảo Marshall
Vị trí của Quần đảo Marshall
Tiêu ngữ
"Jepilpilin ke ejukaan" ("Accomplishment through Joint Effort")
Thành tựu tạo ra từ chung sức
Quốc ca
Forever Marshall Islands
Quần đảo Marshall vĩnh cửu
Hành chính
Cộng hòa đại nghị
Tổng thốngHilda Heine
Thủ đôMajuro
7°7′B 171°4′Đ / 7,117°B 171,067°Đ / 7.117; 171.067
Thành phố lớn nhấtMajuro
Địa lý
Diện tích181,3 km²
70 mi² (hạng 213)
Diện tích nướcKhông đáng kể %
Múi giờUTC+12
Lịch sử
Độc lập
21 tháng 10 năm 1986từ Hoa Kỳ
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Marshall, tiếng Anh
Ngôn ngữ thiểu sốTiếng Kujargé[1]
Dân số ước lượng (2016)53.376 người (hạng 203)
Dân số (2011)53.158[2] người
Mật độ293 người/km² (hạng 28)
885,7 người/mi²
Kinh tế
GDP (PPP) (2019)Tổng số: 115 triệu USD
Bình quân đầu người: 3,789 USD[3] (hạng 195)
GDP (danh nghĩa) (2019)Tổng số: 220 triệu USD
Bình quân đầu người: 3,866 USD
HDI (2021)0.639[4] (hạng 131)
Đơn vị tiền tệDollar Mỹ (USD)
Thông tin khác
Mã ISO 3166-1MH
Tên miền Internet.mh
Mã điện thoại692
Cách ghi ngày thángdd/mm/yyyy
Lái xe bênphải
Tôn giáo tại Quần đảo Marshall (2010)
tôn giáo tỷ lệ
Tin lành
  
51.5%
Đức Chúa Trời
  
24.2%
Công giáo Roma
  
8.4%
Khác
  
8.3%

Quần đảo Marshall, tên chính thức Cộng hòa Quần đảo Marshall (tiếng Marshall: Aolepān Aorōkin M̧ajeļ),[note 1] là một đảo quốc nằm gần xích đạo trên Thái Bình Dương, hơn chệch về phía tây Đường đổi ngày quốc tế. Vế mặt địa lý, quốc gia này là một phần của nhóm đảo Micronesia lớn hơn. Dân số Quần đảo Marshall là 53.158 người (thống kê 2011[2]), cư ngụ trên 29 rạn san hô vòng,[5] gồm 1.156 đảođảo nhỏ. Nước này có biên giới đường biển với Liên bang Micronesia về phía đông, Đảo Wake về phía bắc,[note 2] Kiribati về phía đông nam, và Nauru về phía nam. Khoảng 27.797 người (thống kê 2011) sống tại Majuro, thủ đô đất nước.[5]

Người Micronesia đến định cư tại Quần đảo Marshall vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN, họ sử dụng bản đồ bằng que truyền thống. Người châu Âu biết đến nơi này từ thập niên 1520, khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Alonso de Salazar trông thấy một rạn san hô ở đây năm 1526. Những chuyến viễn chinh của người Anh và người Tây Ban Nha tiếp diễn sau đó. Quần đảo được đặt theo tên nhà thám hiểm người Anh John Marshall, người đã đến đây năm 1788. Người Marshall gọi nơi mình sống là "jolet jen Anij" (Những món quà của Chúa).[6]

Các thế lực châu Âu công nhận quyền quản lý của Tây Ban Nha đối với Quần đảo Marshall năm 1874. Nơi này chính thức là một phần của Đông Ấn Tây Ban Nha từ 1528. Tây Ban Nha bán quần đảo cho Đế quốc Đức năm 1884, và nó trở thành một phần của New Guinea thuộc Đức năm 1885. Vào Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Nhật Bản chiếm Quần đảo Marshall. Năm 1919, Hội Quốc liên đã kết hợp nó với các cựu lãnh thổ của Đức để tạo nên Ủy thác Nam Dương. Vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đánh chiếm quần đảo trong Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall. Cùng với các quần đảo châu Đại Dương khác, Quần đảo Marshall được hợp nhất vào Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái Bình Dương do Hoa Kỳ quản lý. Nước này giành được quyền tự quản năm 1979, và độc lập năm 1986, dưới Hiệp ước Liên kết Tự do với Hoa Kỳ. Quần đảo Marshall đã là một thành viên Liên Hợp Quốc từ nằm 1991.

Về chính trị, đây là một nước cộng hòa tổng thống, liên kết tự do với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ, trợ cấp, và cung cấp đường dây tham gia vào các cơ quan có trụ sở Hoa Kỳ như FCC và USPS. Do chỉ có ít tài nguyên, nền kinh tế quốc gia phụ thuộc vào dịch vụ, cũng như phần nào ngư nghiệpnông nghiệp; viện trợ từ Hoa Kỳ chiếm một phần đáng kể tổng sản phẩm nội địa quốc gia. Dollar Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức.

Đa số công dân tại Quần đảo Marshall là người Marshall, dù có một số nhỏ người nhập cư từ Hoa Kỳ, Trung Quốc, Philippines, và những đảo Thái Bình Dương khác. Hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Marshall (một ngôn ngữ Malay-Polynesia) và tiếng Anh. Gần như toàn bộ dân số theo một tôn giáo nào đó.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Tòa nhà Chính phủ Marshall

Quần đảo Marshall hiện theo chính thể Chính phủ lập hiến trong liên kết tự do với Hoa Kỳ. Hiệp ước Liên kết Tự do có hiệu lực từ ngày 21 tháng 10 năm 1986.

Theo hiến pháp ngày 1 tháng 5 năm 1979, nhà nước Quần đảo Marshall là nhà nước Cộng hòaquyền lập pháp nằm trong tay quốc hội gồm 33 thành viên được bầu lại 4 năm 1 lần. Thượng nghị viện gồm 12 thành viên. Các thành viên sẽ bầu ra Tổng thống và Tổng thống bổ nhiệm nội các bao gồm 10 Bộ trưởng, một số Thống đốc và các quan chức khác.[7]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Cảnh quan bãi biển ở đảo Majuro

Quần đảo Marshall là quốc gia thuộc nhóm đảo Micronesia, ở châu Đại Dương. Quần đảo san hô này ở vùng Bắc Thái Bình Dương, về phía bắc xích đạo, NauruLiên bang Micronesia, cách quần đảo Hawaii khoảng 3.500 km về phía tây nam.

Lãnh thổ gồm 34 đảo, được phân bố thành hai dãy song song cách nhau khoảng 200 km.

Kinh tế Quần đảo Marshall dựa vào đánh bắt cá biển; du lịch, dừa và viện trợ của Hoa Kỳ. Nông nghiệp (các loại cây trồng nhiệt đới khoai sọ, dừa, sa kê) chỉ đáp ứng vừa đủ nhu cấu tiêu thụ trong nước.

Trong thập kỷ qua, GDP tăng trưởng trung bình chỉ 1% do giảm biên chế chính phủ, nạn hạn hán, ngành xây dựng giảm, sự suy giảm GDP trong ngành du lịch và đầu tư nước ngoài là do bởi những khó khăn tài chính châu Á, và giảm thu nhập từ việc đổi mới giấy phép tàu đánh cá.[8]

Giáo dục - Y tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo dục phổ cập bắt buộc và miễn phí từ 6 đến 14 tuổi. Sau đó học sinh phải qua kỳ thi quốc gia để vào trung học. Tiếng Anhtiếng Marshall được sử dụng ở bậc tiểu học, các bậc cao hơn chỉ dùng tiếng Anh. Quần đảo Marshall có một trường cao đẳng ở thủ đô Dalap-Uliga-Darrit. Phần lớn thanh niên sang Mỹ hoặc các nước khác học chương trình đại học.

Chăm sóc y tế ở thành thị khá tốt.[9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên language
  2. ^ a b Republic of the Marshall Islands 2011 Census Report
  3. ^ “Report for Selected Countries and Subjects”. imf.org. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  4. ^ “Human Development Report 2021/2022” (PDF) (bằng tiếng Anh). United Nations Development Programme. 8 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2022.
  5. ^ a b “Marshall Islands Geography”. CIA World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  6. ^ “Republic of the Marshall Islands”. Pacific RISA. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2015.
  7. ^ http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/ca_tbd/nr070801153327/ns070801161117#2yrnIVOGvrzC. Truy cập 26 tháng 9 năm 2015. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  8. ^ “Marshall Islands”. Truy cập 26 tháng 9 năm 2015.
  9. ^ “United Nations Statistics Division”. Truy cập 26 tháng 9 năm 2015.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Phát âm:
    * Tiếng Anh: Republic of the Marshall Islands /ˈmɑːrʃəl ˈləndz/
    * Tiếng Marshall: Aolepān Aorōkin M̧ajeļ
  2. ^ Quần đảo Marshall xem Đảo Wake là một phần lãnh thổ của mình. Trên thực tên, đây là một lãnh thổ chưa được tổ chức, chưa được hợp nhất của Hoa Kỳ, với quyền quản lý được trao cho Phòng Quốc hải vụ.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Government

News

Overviews

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.
Hướng dẫn tân binh Raid Boss - Kraken (RED) Artery Gear: Fusion
Hướng dẫn tân binh Raid Boss - Kraken (RED) Artery Gear: Fusion
Để nâng cao sát thương lên Boss ngoài DEF Reduction thì nên có ATK buff, Crit Damage Buff, Mark
[Review sách] Bay trên tổ cúc cu - Ken Kesey
[Review sách] Bay trên tổ cúc cu - Ken Kesey
Wire, briar, limber-lock Three geese in a flock One flew east, one flew west And one flew over the cuckoo's nest.
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Vật phẩm thế giới Momonga's Red Orb - Overlord
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .