Chánh án Hoa Kỳ | |
---|---|
Tòa án tối cao Hoa Kỳ | |
Kính ngữ | Ngài Chánh án (thân mật) Quý Thẩm phán (tại tòa) Tướng công (trang trọng) |
Cương vị | Chánh án |
Thành viên của | Hệ thống tòa án liên bang Hội đồng Tư pháp Văn phòng Hành chính Tòa án |
Trụ sở | Trụ sở Tòa án tối cao, Washington, D.C. |
Bổ nhiệm bởi | Tổng thống với sự phê chuẩn của Thượng viện |
Nhiệm kỳ | Suốt đời |
Tuân theo | Hiến pháp Hoa Kỳ |
Thành lập | 4 tháng 3 năm 1789 |
Người đầu tiên giữ chức | John Jay |
Lương bổng | $298.500 |
Website | SupremeCourt |
Chánh án Hoa Kỳ (chief justice of the United States) là chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ và quan chức cấp cao nhất của ngành tư pháp liên bang Hoa Kỳ. Đoạn 2 Khoản 2 Điều II Hiến pháp Hoa Kỳ quy định thẩm phán Tòa án tối cao do tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm với sự phê chuẩn của Thượng viện. Đoạn 6 Khoản 3 Điều I mặc định sự tồn tại của chức danh chánh án Hoa Kỳ khi quy định chánh án Hoa Kỳ chủ tọa phiên luận tội tổng thống.
Chánh án Hoa Kỳ phân công việc xem xét thụ lý vụ án của Tòa án tối cao, chủ tọa tranh luận tại phiên tòa và chủ trì việc nghị án. Ngoài ra, chánh án phân công một thẩm phán soạn thảo quyết định của Tòa án tối cao trong trường hợp thuộc đa số.
Theo truyền thống, chánh án Hoa Kỳ là người thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Chánh án là đại diện của nhánh tư pháp, giám đốc hành chính của hệ thống tòa án liên bang và người đứng đầu Hội đồng Tư pháp Hoa Kỳ, nắm quyền bổ nhiệm Văn phòng Hành chính Tòa án Hoa Kỳ. Chánh án cũng là thành viên hội đồng quản trị, viện trưởng Viện Smithsonian.
Từ khi Tòa án tối cao được thành lập vào năm 1789 thì đã có 17 người đảm nhiệm chức vụ Chánh án Hoa Kỳ. Chánh án Hoa Kỳ đầu tiên là John Jay. Từ năm 2005, chánh án Hoa Kỳ đương nhiệm là John Roberts. Năm trong số 17 chánh án Hoa Kỳ là thẩm phán Tòa án tối cao trước khi trở thành chánh án Hoa Kỳ.
Hiến pháp Hoa Kỳ mặc định sự tồn tại của chức danh chánh án tại Đoạn 6 Khoản 3 Điều I: "Trong trường hợp luận tội tổng thống Hoa Kỳ thì chánh án là chủ tọa". Khoản 1 Điều III chỉ quy định thành viên Tòa án tối cao được gọi là "thẩm phán". Luật Tổ chức tư pháp năm 1789 quy định chức danh chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ và thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ.
Năm 1866, Salmon P. Chase bắt đầu gọi chức danh chánh án là chánh án Hoa Kỳ. Từ đó, Quốc hội sử dụng tên gọi mới trong những đạo luật về sau.[1] Melville Fuller là người đầu tiên được bổ nhiệm chức danh chánh án Hoa Kỳ vào năm 1888.[2]
Là một thẩm phán liên bang, chánh án Hoa Kỳ do tổng thống bổ nhiệm với sự phê chuẩn của Thượng viện. Khoản 1 Điều III Hiến pháp Hoa Kỳ quy định nhiệm kỳ của thẩm phán liên bang là suốt đời. Nhiệm kỳ của chánh án Hoa Kỳ kết thúc khi chánh án qua đời, nghỉ hưu, từ chức hoặc bị bãi nhiệm.[3]
Lương chánh án Hoa Kỳ do Quốc hội quyết định; năm 2022, lương hàng năm của chánh án là 286.700 đô la Mỹ, nhỉnh hơn lương thẩm phán Tòa án tối cao là 274.000 đô la Mỹ.[4]
Đã có ba thẩm phán Tòa án tối cao đương nhiệm được bổ nhiệm làm chánh án Hoa Kỳ: Edward Douglass White vào năm 1910, Harlan Fiske Stone vào năm 1941 và William Rehnquist vào năm 1986. Abe Fortas được tổng thống đề cử vào năm 1968 nhưng không được Thượng viện phê chuẩn. William Cushing được bổ nhiệm làm chánh án vào năm 1796 nhưng từ chối nhậm chức. Đã có hai nguyên thẩm phán Tòa án tối cao được bổ nhiệm làm chánh án Hoa Kỳ: John Rutledge được Tổng thống George Washington bổ nhiệm vào năm 1795 trong thời gian Thượng viện ngừng họp nhưng cuối cùng không được phê chuẩn, Charles Evans Hughes được bổ nhiệm vào năm 1930. Ngoài ra, nguyên Chánh án Hoa Kỳ John Jay được bổ nhiệm lần thứ hai nhưng từ chối, dọn đường cho John Marshall làm chánh án.[3]
Ngoài những nhiệm vụ của một thẩm phán Tòa án tối cao, chánh án Hoa Kỳ có một số nhiệm vụ đặc thù.
Khoản 3 Điều I Hiến pháp Hoa Kỳ quy định chánh án Hoa Kỳ chủ tọa phiên luận tội tổng thống. Đã có ba chánh án Hoa Kỳ làm chủ tọa một phiên luận tội tổng thống: Salmon P. Chase (phiên luận tội Andrew Johnson, William Rehnquist (phiên luận tội Bill Clinton) và John Roberts (phiên luận tội Donald Trump lần thứ nhất; Roberts từ chối làm chủ tọa phiên luận tội Donald Trump lần thứ hai sau khi Trump mãn nhiệm. Chủ tịch Thượng viện tạm quyền Patrick Leahy chủ tọa phiên luận tội).[5] Nội quy Thượng viện quy định chánh án Hoa Kỳ chủ tọa phiên luận tội phó tổng thống nhằm ngăn ngừa tình trạng một phó tổng thống chủ tọa phiên luận tội của chính mình.[6][7]
Thủ tục, nội quy của Tòa án tối cao dựa trên thâm niên của các thẩm phán. Chánh án Hoa Kỳ là người đầu tiên trong thứ tự ưu tiên, bất kể thời gian giữ chức.
Chánh án Hoa Kỳ quyết định danh sách những đơn kháng cáo mà các thẩm phán xem xét thụ lý vụ án tại những cuộc họp hàng tuần. Tòa án tối cao thụ lý ít hơn 1% số vụ án được kháng cáo lên Tòa án tối cao. Những thẩm phán Tòa án tối cao có thể bổ sung vụ án vào chương trình làm việc hàng tuần nhưng quyết định của chánh án có ảnh hưởng lớn đối với công việc của Tòa án tối cao.[8][9]
Khi thuộc đa số biểu quyết tán thành, chánh án Hoa Kỳ có quyền phân công một thẩm phán soạn thảo quyết định của Tòa án tối cao. Chánh án có thể phân công một thẩm phán giỏi ngoại giao với những thẩm phán khác, một thẩm phán nhất trí với chánh án hoặc chính chánh án. Người soạn thảo quyết định có ảnh hưởng lớn đối với nội dung bởi một quyết định nhưng mỗi thẩm phán sẽ có văn phong, ý kiến rất khác nhau.[9]
Chánh án Hoa Kỳ chủ trì việc nghị án và thông thường là người đầu tiên phát biểu thảo luận. Tuy có quyền biểu quyết trước nhưng chánh án có thể đợi biểu quyết để xem thẩm phán nào tán thành quyết định của Tòa án tối cao.[9]
Theo truyền thống, chánh án Hoa Kỳ là người thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống tuy Hiến pháp Hoa Kỳ không quy định ai là người thực hiện. Chánh án Hoa Kỳ thông thường là người thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức thẩm phán Tòa án tối cao. Thẩm phán lâu năm nhất của Tòa án tối cao là người thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức chánh án Hoa Kỳ.
Trong trường hợp chánh án Hoa Kỳ không làm việc được thì thẩm phán lâu năm nhất của Tòa án tối cao là người thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Đã có tám lần một người không phải chánh án Hoa Kỳ thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống:[10]
Từ nhiệm kỳ của William Howard Taft, chức danh chánh án Hoa Kỳ đã đảm nhiệm thêm những nhiệm vụ khác.[14] Chánh án Hoa Kỳ:
Chánh án Hoa Kỳ và những thẩm phán liên bang khác có thể kiêm thêm chức vụ. John Jay là người đàm phán Điều ước Jay giữa Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Robert H. Jackson được Tổng thống Truman bổ nhiệm làm công tố viên của Hoa Kỳ tại phiên tòa Nürnberg. Earl Warren là chủ nhiệm Ủy ban Tổng thống về vụ ám sát Tổng thống Kennedy.
Trong trường hợp khuyết chánh án Hoa Kỳ hoặc chánh án Hoa Kỳ không làm việc được thì thẩm phán lâu năm nhất của Tòa án tối cao thực hiện nhiệm vụ của chánh án Hoa Kỳ. Hiện tại, Clarence Thomas là thẩm phán Tòa án tối cao lâu năm nhất.
Từ khi Tòa án tối cao Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1789 thì đã có 17 người đảm nhiệm chức vụ chánh án Hoa Kỳ:[17][18]
Chánh án | Ngày được phê chuẩn
(Kết quả biểu quyết) |
Nhiệm kỳ[a] | Thời gian giữ chức | Người bổ nhiệm | Chức vụ trước[b] | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | John Jay
(1745–1829) |
26 tháng 9 năm 1789
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
19 tháng 10 năm 1789–
29 tháng 6 năm 1795 (Từ chức) |
5 năm, 253 ngày | George Washington | Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
(1789–1790) | |
2 | John Rutledge
(1739–1800) |
15 tháng 12 năm 1795
(10–14)[c] |
12 tháng 8 năm 1795–
28 tháng 12 năm 1795 (Từ chức sau khi không được phê chuẩn) |
138 ngày | Chánh án Tòa án tố tụng dân sự South Carolina
(1791–1795) Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ (1789–1791) | ||
3 | Oliver Ellsworth
(1745–1807) |
4 tháng 3 năm 1796
(21–1) |
8 tháng 3 năm 1796–
15 tháng 12 năm 1800 (Từ chức) |
4 năm, 282 ngày | Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đại diện Connecticut
(1789–1796) | ||
4 | John Marshall
(1755–1835) |
27 tháng 1 năm 1801
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
4 tháng 2 năm 1801–
6 tháng 7 năm 1835 (Qua đời) |
34 năm, 152 ngày | John Adams | Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ thứ tư
(1800–1801) | |
5 | Roger B. Taney
(1777–1864) |
15 tháng 3 năm 1836
(29–15) |
28 tháng 3 năm 1836–
12 tháng 10 năm 1864 (Qua đời) |
28 năm, 198 ngày | Andrew Jackson | Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ thứ 12
(1833–1834) | |
6 | Salmon P. Chase
(1808–1873) |
6 tháng 12 năm 1864
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
15 tháng 12 năm 1864–
7 tháng 5 năm 1873 (Qua đời) |
8 năm, 143 ngày | Abraham Lincoln | Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ thứ 25
(1861–1864) | |
7 | Morrison Waite
(1816–1888) |
21 tháng 1 năm 1874
(63–0) |
4 tháng 3 năm 1874–
23 tháng 3 năm 1888 (Qua đời) |
14 năm, 19 ngày | Ulysses S. Grant | Thành viên Thượng viện Ohio
(1849–1850) Chủ tọa hội nghị lập hiến Ohio (1873) | |
8 | Melville Fuller
(1833–1910) |
20 tháng 7 năm 1888
(41–20) |
8 tháng 10 năm 1888–
4 tháng 7 năm 1910 (Qua đời) |
21 năm, 269 ngày | Grover Cleveland | Chủ tịch Hiệp hội Luật sư Tiểu bang Illinois
(1886) Thành viên Hạ viện Illinois (1863–1865) | |
9 | Edward Douglass White
(1845–1921) |
12 tháng 12 năm 1910[d]
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
19 tháng 12 năm 1910–
19 tháng 5 năm 1921 (Qua đời) |
10 năm, 151 ngày | William Howard Taft | Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ
(1894–1910) | |
10 | William Howard Taft
(1857–1930) |
30 tháng 6 năm 1921
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
11 tháng 7 năm 1921–
3 tháng 2 năm 1930 (Từ chức) |
8 năm, 207 ngày | Warren G. Harding | Tổng thống Hoa Kỳ thứ 27
(1909–1913) | |
11 | Charles Evans Hughes
(1862–1948) |
13 tháng 2 năm 1930
(52–26) |
24 tháng 2 năm 1930–
30 tháng 6 năm 1941 (Từ chức) |
11 năm, 126 ngày | Herbert Hoover | Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ thứ 44
(1921–1925) Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ (1910–1916) | |
12 | Harlan F. Stone
(1872–1946) |
27 tháng 6 năm 1941[d]
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
3 tháng 7 năm 1941–
22 tháng 4 năm 1946 (Qua đời) |
4 năm, 293 ngày | Franklin D. Roosevelt | Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ
(1925–1941) | |
13 | Fred M. Vinson
(1890–1953) |
20 tháng 6 năm 1946
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
24 tháng 6 năm 1946–
8 tháng 9 năm 1953 (Qua đời) |
7 năm, 76 ngày | Harry S. Truman | Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ thứ 53
(1945–1946) | |
14 | Earl Warren
(1891–1974) |
1 tháng 3 năm 1954
(Thông qua bằng cách hoan hô) |
5 tháng 10 năm 1953–
23 tháng 6 năm 1969 (Nghỉ hưu) |
15 năm, 261 ngày | Dwight D. Eisenhower | Thống đốc California thứ 30
(1943–1953) | |
15 | Warren E. Burger
(1907–1995) |
9 tháng 6 năm 1969
(74–3) |
23 tháng 6 năm 1969–
26 tháng 9 năm 1986 (Nghỉ hưu) |
17 năm, 95 ngày | Richard Nixon | Thẩm phán Tòa án phúc thẩm liên bang Đặc khu Columbia
(1956–1969) | |
16 | William Rehnquist
(1924–2005) |
26 tháng 9 năm 1986–
3 tháng 9 năm 2005 (Qua đời) |
18 năm, 342 ngày | Ronald Reagan | Thẩm phán Tòa án tối cao Hoa Kỳ
(1972–1986) | ||
17 | John Roberts
(born 1955) |
29 tháng 9 năm 2005
(78–22) |
29 tháng 9 năm 2005–
Hiện tại |
19 năm, 79 ngày | George W. Bush | Thẩm phán Tòa án phúc thẩm liên bang Đặc khu Columbia
(2003–2005) |
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên startend
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên position
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Rutledge
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên separate