Bài này nằm trong loạt bài về: Chính trị và chính phủ Liên Xô |
Chính sách kinh tế mới (NEP) (Nga: но́вая экономи́ческая поли́тика (НЭП), chuyển tự. nóvaya ekonomícheskaya polítika) là một chính sách kinh tế của Liên Xô được đề xuất bởi Vladimir Lenin năm 1921 như một biện pháp tạm thời. Lenin đã miêu tả NEP vào năm 1922 như là một hệ thống kinh tế mà có thể bao gồm "một thị trường tự do và chủ nghĩa tư bản, cả hai đối tượng đều thuộc sự quản lý của nhà nước", trong khi những doanh nghiệp xã hội hóa nhà nước sẽ hoạt động trên "một cơ sở lợi nhuận".[1]
NEP đã đưa ra một chính sách kinh tế thị trường định hướng hơn (được coi là cần thiết sau Nội chiến Nga từ 1918 tới 1922) để thúc đẩy nền kinh tế đất nước, thứ đã bị thiệt hại nặng nề từ 1915. Chính phủ đã hủy bỏ một phần việc quốc hữu hóa hoàn toàn ngành công nghiệp (đã chính thức hóa trong thời kỳ 1918 tới 1921) và được trình ra một hệ thống kinh tế hỗn hợp, thứ mà cho phép các cá nhân sở hữu những doanh nghiệp nhỏ,[2] trong khi quốc gia tiếp tục quản lý ngân hàng, thương mại quốc tế, và công nghiệp nặng.[3] Ngoài ra, NEP thủ tiêu prodrazvyorstka (cưỡng bức trưng dụng lúa mì) và trình ra prodnalog: một sắc thuế đánh lên những người nông dân, có thể trả theo hình thức của sản phẩm thô nông nghiệp.[2][4] Chính phủ Bolshevik đã chấp nhận NEP trong Đại hội 10 của Đảng Cộng sản toàn Nga (tháng 3 năm 1921) và đã ban bố nó bằng một sắc lệnh vào 21 tháng 3 năm 1921:"Bàn về Sự thay thế của Prodrazvyorstka bằng Prodnalog". Những sắc lệnh thêm nữa nhằm cải tiến chính sách. Những chính sách khác bao gồm Cải cách tiền tệ (1922-1924) (Liên Xô) và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách NEP đã tạo ra một nhóm người mới được gọi là NEPmen (nhà giàu mới). Joseph Stalin đã từ bỏ NEP năm 1928 với chính sách Bước ngoặt vĩ đại.
Vào tháng 11 năm 1917, những người Bolsheviks (Tiếng Việt: Bô-sê-vích) đã chiếm những trung tâm then chốt ở Nga. Điều đó dẫn tới Nội chiến Nga từ năm 1917 tới 1922, cuộc chiến giữa những người Bolsheviks và đồng minh của họ chống lại Bạch vệ và những lực lượng khác. Trong suốt thời gian nội chiến người Bolseviks điều hành nền kinh tế Nga hoàn toàn bằng sắc lệnh để áp dụng chính sách Cộng sản thời chiến. Nông dân và công nhân nhà máy sản xuất theo những mệnh lệnh của chính phủ, và lương thực, hàng hóa bị tịch thu và được phân phối bằng sắc lệnh.[5] Chính sách này có thể giúp chính quyền Bolshevik vượt qua một vài khó khăn ban đầu nhưng nó sớm gây ra sự đổ vỡ kinh tế và khó khăn. Những người sản xuất không được đền bù trực tiếp cho sức lao động của họ thường ngừng hoạt động, dẫn đến tình trạng thiếu hụt trên diện rộng. Kết hợp với sự tàn phá của chiến tranh, đây là những khó khăn lớn đối với người dân Nga và làm giảm sự ủng hộ của dân chúng đối với những người Bolshevik.
Tại thời điểm cuối của Nội chiến, Bolsheviks đã kiểm soát những thành phố của Nga, nhưng 80% dân Nga là bần nông.[6] Mặc dù hầu hết tất cả các cuộc chiến đã xảy ra bên ngoài những khu vực đô thị, dân thành thị đã giảm rất nhiều.[7] Chiến tranh đã gây náo loạn giao thông (đặc biệt đường sắt), và những dịch vụ công cộng. Bệnh tật lây lan, đặc biệt là sốt phát ban. Việc vận chuyển lương thực và chất đốt bằng đường sắt và đường thủy đã giảm đáng kể. Những cư dân thành thị đầu tiên đã trải qua sự thiếu dầu sưởi ấm, sau là than đá, đến khi phải dùng gỗ. Cư dân ở những đô thị phía bắc (bao gồm những thành phố thủ phủ) giảm xuống 24%.[8] Những đô thị phía bắc đã nhận ít lương thực hơn so với những đô thị nông nghiệp phía nam. Riêng Petrograd đã mất 850,000 người, một nửa cư dân thành thị đã giảm xuống trong suốt Nội chiến.[8] Điều kiện đói và nghèo đã khiến người dân rời bỏ các thành phố. Công nhân di cư xuống phía nam để lấy thặng dư của nông dân. Những người di cư gần đây đến các thành phố rời đi vì họ vẫn còn quan hệ với các làng mạc.[7]
Công nhân thành thị đã hình thành nên cốt lõi của sự ủng hộ Bolshevik, vì vậy cuộc di cư đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng. Sản xuất của nhà máy bị chậm lại hoặc tạm dừng nghiêm trọng. Các nhà máy thiếu 30.000 công nhân vào năm 1919. Để tồn tại, cư dân thành phố đã bán các vật dụng có giá trị cá nhân, làm hàng thủ công mỹ nghệ để bán hoặc trao đổi, và trồng các khu vườn. Nhu cầu cấp thiết về thực phẩm đã khiến họ kiếm được 50-60% thực phẩm thông qua hoạt động buôn bán bất hợp pháp. Tình trạng thiếu tiền mặt khiến thị trường chợ đen sử dụng hệ thống hàng đổi hàng không hiệu quả.[9] Hạn hán và băng giá đã dẫn đến nạn đói ở Nga năm 1921, trong đó hàng triệu người chết đói, đặc biệt là ở vùng Volga, và sự ủng hộ của cư dân thành thị đối với đảng Bolshevik bị xói mòn.[10] Khi không có bánh mì đến Moscow năm 1924, công nhân trở nên đói và vỡ mộng. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống lại chính sách khẩu phần đặc quyền của Đảng Bolshevik, trong đó Hồng quân, đảng viên và sinh viên được nhận khẩu phần ăn trước. Cuộc nổi dậy Kronstadt của binh lính và thủy thủ nổ ra vào tháng 3 năm 1921, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa vô trị và chủ nghĩa dân túy.[9] Năm 1921, Lenin thay thế chính sách trưng dụng lương thực bằng một loại thuế, báo hiệu sự ra đời của Chính sách Kinh tế Mới.[11]
Các luật đã chấp nhận sự tồn tại chung của các khu vực tư nhân và sở hữu chung, được đưa vào NEP, vốn là một "nền kinh tế hỗn hợp"[12] theo định hướng của nhà nước. Một số loại đầu tư nước ngoài được Liên Xô mong đợi theo NEP, để tài trợ cho các dự án công nghiệp và phát triển cần ngoại hối hoặc công nghệ.[13]
NEP trước hết là một chính sách nông nghiệp mới.[14] Những người Bolshevik xem cuộc sống làng xã truyền thống là bảo thủ và lạc hậu. Với NEP, nhà nước chỉ cho phép tư nhân chiếm đất vì ý tưởng canh tác tập thể đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ.[15]
Lenin hiểu rằng điều kiện kinh tế rất tồi tệ, vì vậy ông đã mở cửa thị trường ở mức độ tự do thương mại cao hơn, với hy vọng thúc đẩy dân chúng gia tăng sản xuất. Theo NEP, không chỉ "tài sản tư nhân, doanh nghiệp tư nhân và lợi nhuận tư nhân được khôi phục phần lớn ở nước Nga của Lenin," mà chế độ của Lenin đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản quốc tế để được hỗ trợ, sẵn sàng cung cấp "những nhượng bộ hào phóng cho chủ nghĩa tư bản nước ngoài."[16] Lenin cho rằng để đạt được chủ nghĩa xã hội, ông phải tạo ra "những điều kiện tiên quyết vật chất còn thiếu" của hiện đại hóa và phát triển công nghiệp, khiến nước Nga Xô viết bắt buộc phải "quay trở lại chương trình thị trường có sự giám sát tập trung của chủ nghĩa tư bản nhà nước"[16] Lenin đã tuân theo lời khuyên của Karl Marx rằng một quốc gia trước hết phải đạt đến "sự trưởng thành hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản như là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa xã hội chủ nghĩa."[17]
Sau này, người ta sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa Marx-Lenin để mô tả cách tiếp cận của Lenin đối với các chính sách kinh tế vốn được coi là ủng hộ việc đưa đất nước theo chủ nghĩa cộng sản.[18] Chính sách mà Lenin sử dụng là chấm dứt việc trưng dụng ngũ cốc và thay vào đó, đặt ra thuế đối với nông dân, do đó cho phép họ giữ và buôn bán một phần sản phẩm của mình (tức sau khi nộp đủ thuế lương thực theo quy định, nông dân được quyền sử dụng số dư thừa). Lúc đầu, thuế này được trả bằng hiện vật, nhưng khi tiền tệ trở nên ổn định hơn vào năm 1924, nó đã được chuyển sang thanh toán bằng tiền mặt.[2] Điều này làm tăng động cơ sản xuất của nông dân, và đáp lại sản lượng đã tăng 40% sau hạn hán và nạn đói năm 1921–1922.[19]
Các cải cách kinh tế của NEP nhằm mục đích lùi một bước so với kế hoạch hóa tập trung và cho phép nền kinh tế trở nên độc lập hơn. Cải cách lao động NEP gắn lao động với năng suất, khuyến khích giảm chi phí và tăng gấp đôi nỗ lực của lao động. Công đoàn trở thành tổ chức dân sự độc lập.[2] Cải cách NEP cũng mở ra các vị trí trong chính phủ cho những người lao động có trình độ cao nhất. NEP đã tạo cơ hội cho chính phủ sử dụng các kỹ sư, chuyên gia và trí thức để hạch toán chi phí, mua thiết bị, quy trình hiệu quả, xây dựng đường sắt và quản lý công nghiệp. Một lớp "NEPmen" mới phát triển mạnh. Các thương nhân tư nhân này đã mở các công ty thành thị thuê tới 20 công nhân. NEPmen cũng bao gồm các thợ thủ công thủ công ở nông thôn bán đồ của họ trên thị trường tư nhân.[20]
Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu những lĩnh vực mà Lenin cho là "chỉ đạo tối cao" nền kinh tế: công nghiệp nặng như các lĩnh vực than, thép và luyện kim cùng với các thành phần ngân hàng và tài chính của nền kinh tế.
Lenin coi NEP là một cuộc rút lui chiến lược khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.[21] Ông tin chính sách này có những yếu tố của chủ nghĩa tư bản, nhưng bào chữa bằng cách nhấn mạnh rằng đó là một kiểu khác của chủ nghĩa tư bản, "Chủ nghĩa tư bản nhà nước", giai đoạn cuối của chủ nghĩa tư bản và là bước đệm trước khi chủ nghĩa xã hội phát triển.[15] Trong khi Stalin đã dường như đón nhận với những chính sách thay đổi của Lenin đối với một hệ thống nhà nước tư bản, ông đã phát biểu trong Đại hội Đảng lần thứ Mười Hai vào tháng 4 năm 1923 rằng nó cho phép "phát triển chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng phản động..." Ông cũng đã phát biểu rằng trong thời gian gần Hội nghị Trung ương có những phát biểu mà chúng xung khắc với chủ nghĩa cộng sản, tất cả trong số đó về cơ bản được gây ra do NEP. Những phát biểu được thực hiện ngay sau khi Lenin qua đời vì đột quỵ.[22]
Leon Trotsky và Stalin đã bất đồng về cách phát triển nền kinh tế Liên Xô. Trotsky, được các thành viên cấp tiến của Đảng Cộng sản ủng hộ, tin rằng chủ nghĩa xã hội ở Nga sẽ chỉ tồn tại nếu nhà nước kiểm soát việc phân bổ tất cả sản lượng được sản xuất. Trotsky đã tin rằng quốc gia nên thu hồi tất cả sản lượng làm ra để đầu tư vào việc hình thành tư bản. Mặt khác, Stalin đã ủng hộ việc giảm số lượng thành viên Đảng cộng sản và ủng hộ cho một nền kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước. Quan điểm của Stalin đã chiến thắng Trotsky khi ông ta nhận được đa số ủng hộ trong Đảng Cộng sản và lên nắm quyền, sau đó Stalin đã đảo ngược ý kiến của mình về chính sách kinh tế và thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên.[23]
Sau khi Chính sách Kinh tế Mới được ban hành, sản xuất nông nghiệp đã tăng lên rất nhiều. Để kích thích tăng trưởng kinh tế, nông dân có cơ hội bán một phần cây trồng của họ cho chính phủ để đổi lấy tiền bồi thường. Nông dân bây giờ có quyền lựa chọn bán một số sản phẩm của họ, tạo cho họ động lực kinh tế cá nhân để sản xuất nhiều ngũ cốc hơn.[24] Sự khuyến khích này, cùng với sự tan rã của các điền trang gần như phong kiến, đã giúp sản xuất nông nghiệp vượt qua thời kỳ trước Cách mạng. Ngành nông nghiệp ngày càng phụ thuộc vào các trang trại gia đình nhỏ, trong khi các ngành công nghiệp nặng, ngân hàng và các tổ chức tài chính vẫn do nhà nước sở hữu và điều hành. Điều này đã tạo ra sự mất cân bằng trong nền kinh tế khi ngành nông nghiệp đang phát triển nhanh hơn nhiều so với ngành công nghiệp nặng. Để duy trì thu nhập của họ, các nhà máy đã tăng giá. Do chi phí hàng hóa sản xuất tăng cao, nông dân phải sản xuất nhiều lúa mì hơn để mua những mặt hàng tiêu dùng này, điều này làm tăng nguồn cung và do đó làm giảm giá của những nông sản này. Sự sụt giảm giá hàng hóa nông nghiệp và giá sản phẩm công nghiệp tăng mạnh này được gọi là lạm phát do cầu kéo (do sự giao nhau giữa các biểu đồ của giá cả của hai loại sản phẩm). Nông dân bắt đầu giữ lại phần thặng dư của họ để chờ giá cao hơn, hoặc bán chúng cho "NEPmen" (thương nhân và người trung gian) để bán lại với giá cao. Nhiều đảng viên Đảng Cộng sản coi đây là một hành vi bóc lột người tiêu dùng thành thị. Để hạ giá hàng tiêu dùng, nhà nước đã thực hiện các biện pháp để giảm lạm phát và ban hành các cải cách về hoạt động nội bộ của các nhà máy. Chính phủ cũng cố định giá, trong một nỗ lực để ngăn chặn hiệu ứng chiếc kéo.[25]
NEP đã thành công trong việc tạo ra sự phục hồi kinh tế sau sự tàn phá của Thế chiến I, Cách mạng Nga và Nội chiến Nga. Đến năm 1925, sau khi NEP của Lenin thực hiện được gần 4 năm, Liên Xô đã diễn ra một "... sự chuyển đổi lớn đã xảy ra về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và tinh thần" Các ngành công nghiệp quy mô nhỏ và nhẹ phần lớn nằm trong tay các doanh nhân tư nhân hoặc hợp tác xã. Đến năm 1928, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã được khôi phục về mức năm 1913 (trước Chiến tranh thế giới thứ nhất).[26]
NEP của Xô viết (1921-29) hầu như là một giai đoạn "thị trường xã hội chủ nghĩa" tương tự như các cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình tại Trung Quốc sau năm 1978 theo đó dự tính trước một vai trò cho những nhà thầu tư nhân và các thị trường bị hạn chế dựa trên thương mại và giá cả hơn là hoàn toàn kế hoạch hoá tập trung. Một điều khá thú vị, trong cuộc gặp đầu tiên vào đầu những năm 1980 giữa Đặng Tiểu Bình và Armand Hammer, một nhà công nghiệp Mỹ và là nhà đầu tư lớn vào Liên bang Xô viết của Lenin, Đặng đã cố tranh thủ được càng nhiều thông tin về NEP càng tốt.[27]
Cái chết của Lenin vào năm 1924 dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các nhóm chính trị về việc duy trì hay từ bỏ NEP.[28] Nhóm đối lập cánh tả trong đảng, dẫn đầu là Trotsky từ lâu đã phản đối NEP vì nhiều lý do ý thức hệ và thực tiễn (hệ thống thị trường đã bắt đầu tạo ra những kết quả xấu theo kiểu chủ nghĩa tư bản: lạm phát, thất nghiệp, và sự nổi lên của tầng lớp giàu có). Họ thường sử dụng "Cuộc khủng hoảng kéo" trong cuộc đấu tranh tư tưởng với cánh ôn hoà trong đảng (những người ủng hộ NEP), do Nikolai Ivanovich Bukharin lãnh đạo. Ban đầu, Stalin thống nhất với nhóm của Bukharin để đấu tranh với Trotsky. Nhưng cuối cùng ông chuyển sang chống những người ôn hoà, những người ủng hộ NEP sau khi Trotsky phải lưu vong, để củng cố sự kiểm soát của ông ta đối với đảng và nhà nước.[29]
Pantsov và Levine coi nhiều cải cách kinh tế của Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo bởi Đặng Tiểu Bình hướng tới một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trong suốt những năm thập kỷ 80 đã chịu ảnh hưởng từ NEP "Sẽ được nhắc lại rằng Bản thân Đặng Tiểu Bình đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác từ các công trình của các nhà lãnh đạo Bolshevik, những người đã đề xướng NEP. Ông ấy đã rút ra các ý tưởng từ NEP khi nói về những cải cách của chính mình. Năm 1985, ông ấy công khai thừa nhận rằng 'có lẽ' mô hình chủ nghĩa xã hội đúng đắn nhất là Chính sách kinh tế mới của Liên Xô."[30]
[...] the writ of centralized state power did not extend much beyond the cities and the (partially destroyed) rail lines connecting them. In the broad expanses of the countryside, peasants, who comprised upwards of 80 percent of the total population, hunkered down in their communes, having both economically and psychologically withdrawn from the state and its military and food detachments.