Chiến tranh Kosovo Paт нa Кocoву и Meтoxиjи Lufta në Kosovë | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Nam Tư[1] | |||||||||
theo hướng kim đồng hồ từ trái bên trên: Tổng hành dinh của Nam Tư bị hư hại vì bom của NATO; Xe ở Nam Tư bị đè bởi gạch rơi do bom của NATO; Tưởng niệm những chỉ huy trưởng của KLA; F-15E của Không lực Hoa Kỳ cất cánh từ căn cứ Aviano | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA)
| Cộng hòa Liên bang Nam Tư | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Adem Jashari †
|
Slobodan Milošević | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
9,000 – 20,000 quân nổi dậy[24] khoảng 100-150 binh lính[cần dẫn nguồn] cca. 80 máy bay (Operation Eagle Eye)[26] 1,031 máy bay (Operation Allied Force)[27] Hơn 30 tàu chiến và tàu ngầm[28] Khoảng 50.000 lính trú đóng tại Bắc Albania |
85.000 binh lính[29] (bao gồm 40,000 và quanh Kosovo)[28] 20.000 cảnh sát 100 SAM địa điểm[28] 1,400 pháo (cả mặt đất và chống máy bay[28] 240 máy bay[28] 2.032 xe tăng[28] hàng 1000 lính tình nguyện Nga[30][31] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
1.500 người nổi dậy bị giết(theo KLA)[32] 47 UAV bị bắn rơi[33] 3 người lính bị bắt |
gây ra bởi KLA: hơn 300 binh lính bị giết theo quân đội Nam Tư[39] gây ra bởi NATO: 1.031–1.200 bị giết[a] 14 xe tăng bị phá hủy[44] 18 APC bị phá hủy[45] 20 đại pháo bị tiêu hủy[45] 121 máy bay và trực thăng bị phá hủy[46] | ||||||||
Trong Kosovo: (theo Human Rights Watch)[53] |
Thuật ngữ Chiến tranh Kosovo hay Xung đột Kosovo là một cuộc xung đột có vũ trang để mà kiểm soát vùng Kosovo trong những năm 1998/1999. Kosovo là một vùng nơi đa số dân là người gốc Albania, lúc đó thuộc Serbia, nước Serbia và Montenegro. Chiến tranh Kosovo diễn ra qua 2 giai đoạn:
Nguyên nhân chủ yếu của Chiến tranh Kosovo là yếu tố sắc tộc và có nguồn gốc lịch sử lâu đời[54].
Người Slav, trong đó có người Serbia đến bán đảo Balkan vào khoảng thế kỷ thứ bảy trước công nguyên. Trên mảnh đất mà Đế chế Byzantium cấp cho, người Serbia dần xây dựng và mở rộng đất đai và lập nên vương quốc Serbia. Vương quốc này đã có thời cực thịnh vượng (khoảng đầu thế kỷ XIV) và bao gồm cả Bosnia, Slovenia và Croatia. Kosovo từng là trung tâm của vương quốc này. Cũng chính tại Kosovo vào năm 1389 Hoàng tử Lazar, thủ lĩnh của Serbia đã ngã xuống trong trận chiến đấu chống đế quốc Ottoman để bảo vệ vương quốc Serbia. Tuy cuộc chiến thất bại, nhưng từ đó Kosovo được coi như cái nôi lịch sử, nơi hội tụ tinh thần dân tộc Serbia. Ottoman cai trị vùng đất của Serbia mang theo cả một sự xáo trộn dân số và tôn giáo. Người Albani, đạo Hồi cùng theo đó mà thâm nhập vào đây. Trong nhiều thế kỷ sau đó cả vùng đất Balkan bị chia sẻ, giành giật giữa đế quốc Ottoman và Triều Habsburg, tiếp đó là đế quốc Áo-Hung. Sự di dân, quá trình đấu tranh đòi độc lập dân tộc xen kẽ với các cuộc chiến tranh triền miên giữa liên minh của từng dân tộc với các đế quốc cai trị chống lại liên minh của dân tộc khác và đế quốc khác là nguyên nhân tồn tại cùng một lúc hai quá trình trái ngược nhau: quá trình phân tách và quá trình đồng hoá dân tộc và tôn giáo. Điều này giải thích cho hiện tượng đa dân tộc, đa tôn giáo và sự bố trí nhiều khi xen kẽ giữa các cộng đồng dân tộc và tôn giáo khác nhau, cũng như những mối hiềm khích giữa các cộng đồng ở Balkan.
Đầu thế kỷ XIX, sau những cuộc nổi dậy của người Serbia, nhà nước Serbia ra đời và liên tục mở rộng đất đai, đặc biệt thông qua các cuộc chiến tranh Balkan. Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, với Hoà ước Versailles, Serbia đã trở thành Nam Tư và bao gồm cả Kosovo, Vovoidin, Montenegro, Bosnia, Croatia và Slovenia và như vậy đạt được hai mục tiêu: thống nhất được tất cả người Serbi trong một quốc gia và lập được một liên minh bền vững của các dân tộc Nam Slav.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai đất nước Nam Tư bị phát xít Đức xâm chiếm và chia cắt (Kosovo lúc đầu bị đưa cho Albani sau đó bị Italia sáp nhập), nhưng kết thúc chiến tranh, lãnh thổ nước này lại được thừa nhận như trong Hoà ước Versailles. Dưới chính quyền của tổng thống Tito, Nam Tư là một nhà nước liên bang gồm sáu nước cộng hoà: Serbia, Slovenia, Croatia, Bosnia, Montenegro, Makedonia và hai khu tự trị: Kosovo và Vovoidin. Với chính sách dân tộc cân bằng và trong bối cảnh chiến tranh lạnh, cộng với tình hình kinh tế Nam Tư còn khả quan, các mâu thuẫn sắc tộc lắng xuống hoặc được giải quyết tương đối êm thấm[54].
Tại Kosovo nơi có 90% là người Albani theo đạo Hồi, 10% người Serbi theo đạo Cơ đốc chính thống, mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo lên cao kể từ khi một chính phủ bí mật của người Albani thành lập tồn tại song song cùng chính phủ liên bang; và đặc biệt từ khi "ngọn cờ đòi độc lập" của người Albani rơi vào tay của phái Quân đội giải phóng Kosovo chủ trương bạo lực và chính phủ trung ương tăng cường hành động để đối phó với phong trào này[54].
Cho dù chính sách của ông Slobodan Milošević đối với các dân tộc không phải người Serbia, theo phương Tây, có nhiều điểm không công bằng theo quan điểm phương Tây, có nhiều phân biệt đối xử không công bằng đã đẩy các mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo vốn có từ lâu đời lên cao điểm nhưng nếu như không có sự can thiệp từ bên ngoài có lẽ không có khủng hoảng bùng nổ và lan rộng như tình hình diễn ra mấy năm nay ở vùng đất Nam Tư cũ.
Sự việc bắt đầu từ việc nước Đức, trên cơ sở quan hệ văn hoá truyền thống gần gũi với miền Tây Nam Tư cũ, và các tính toán khẳng định vai trò ảnh hưởng của mình ở châu Âu, đã mạnh mẽ ủng hộ Slovenia và Croatia tách ra độc lập - một hành động bất ngờ đối với chính các đồng minh Tây Âu của Đức. Các nước Tây Âu lúc đầu cho rằng nên ủng hộ giải quyết các vấn đề dân tộc của Nam Tư theo tinh thần bảo toàn thống nhất liên bang, tránh một phản ứng lây lan đòi li khai của các cộng đồng sắc tộc khác nhau, tránh tình trạng "Balkan hoá". Hành động đơn phương của Đức đặt họ vào tình thế "việc đã rồi"; hơn nữa các nước này cũng không muốn để Đức hoàn toàn chi phối chiều hướng phát triển ở khu vực, Tây Âu đã quyết định ủng hộ lập trường của Đức và đứng ra làm người bảo trợ cho các tiến trình tách khỏi liên bang của Slovenia, Croatia, Bosnia. Tuy nhiên, do thực lực và tiếng nói còn hạn chế nên Tây Âu đã để tuột dần sang cho Mỹ vai trò chi phối các tiến trình này. Sự can thiệp bên ngoài để thúc ép tiến trình phân tách của một dân tộc là chất xúc tác mạnh mẽ cho các cuộc bạo động và khuyến khích các dân tộc khác cũng đòi hỏi được tách ra độc lập tương tự. Sự bùng nổ dây chuyền những đòi hỏi độc lập này đã gây ra một tình trạng căng thẳng leo thang khó kiểm soát nổi bên trong Nam Tư, tạo thêm cớ để bên ngoài lợi dụng can thiệp sâu hơn nữa. Tình hình bùng nổ ở Kosovo chính là diễn biến logic sau khi Slovenia, Croatia, rồi Bosnia giành được độc lập nhờ sự hỗ trợ can thiệp trực tiếp của nước ngoài. Ngươì Albani ở Kosovo rõ ràng cũng muốn theo gương các nước Cộng hoà cũ này của Nam Tư. Cứ theo logic đó thì Kosovo chưa chắc là điểm dừng cuối cùng của cuộc khủng hoảng Nam Tư, bởi vì tại Montenegro (một nước cộng hoà hiện còn nằm trong Liên bang Nam Tư ngày nay), hay ở Macedonia cũng có những cơ cấu và mâu thuẫn sắc tộc phức tạp tương tự như ở Kosovo và Nam Tư[54].
Căng thẳng giữa hai cộng đồng đã được nhen nhóm trong suốt thế kỷ 20 và thỉnh thoảng trở thành những cuộc bạo lực, đặc biệt trong Chiến tranh Balkan lần thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Chính quyền cộng sản của Josip Broz Tito đã đàn áp có hệ thống các cuộc biểu tình của những nhà chủ nghĩa dân tộc trên khắp nước Nam Tư, nhằm chắc chắn rằng không một nước cộng hòa nào thống trị các nước khác. Đặc biệt, sức mạnh của Serbia - nước cộng hòa rộng và đông dân nhất - đã giảm dần bởi sự thành lập chính phủ tự trị ở tỉnh Vojvodina phía bắc Serbia và tỉnh Kosovo ở phía nam. Biên giới của Kosovo không chính xác đúng với vùng sinh sống của người thiểu số Albania ở Nam Tư (lượng lớn người Albania đã rời đến Cộng hòa Macedonia, Montenegro và Serbia trong khi ở phía bắc tỉnh Kosovo vẫn còn rất nhiều người Serbia). Tuy nhiên, đa số cư dân ở đây là người Albania ít nhất là từ 1921.
Nền tự trị chính thức của Kosovo, thiết lập theo Hiến pháp Nam Tư 1945, ban đầu có rất ít trên thực tế. Cảnh sát mật của Tito đàn áp không nương tay với các phong trào dân tộc. Năm 1956, rất nhiều người Albania bị bắt ở Kosovo và bị buộc tội gián điệp và lật đổ. Nguy cơ của chủ nghĩa ly khai thực tế rất ít, vì các nhóm nhỏ bí mật hoạt động vì sự thống nhất với Albania không quan trọng lắm về mặt chính trị. Tuy vậy, ảnh hưởng lâu dài là có thật, vì một vài nhóm, đặc biệt là Phong trào Cách mạng cho sự thống nhất Albania, thành lập bởi Adem Demaci, sau đó đã trở thành nhân tố chính trị quan trọng của Quân Giải phóng Kosovo. Bản thân Adem Demaci cũng bị bắt vào năm 1964 cùng với rất nhiều người trong phong trào.
Nam Tư đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế và chính trị vào năm 1969, vì một chương trình cải cách kinh tế hàng loạt của chính phủ đã tăng thêm khoảng cách giữa vùng phía bắc giàu có và vùng phía nam nghèo đói của đất nước. Các cuộc biểu tình của sinh viên và các cuộc nổi loạn tại Beograd vào tháng 6 năm 1968 đã lan rộng đến Kosovo vào tháng 11 cũng năm đó, nhưng bị đàn áp bởi các lực lượng an ninh Nam Tư. Tuy nhiên, một vài đề nghị của sinh viên, đặc biệt là quyền lực đại diện thật sự cho người Albania ở cả Serbia và Nam Tư, và sự công nhận tiếng Albania, đã được Tito chấp nhận. Đại học Pristina được thành lập như là một tổ chức độc lập vào năm 1970, đã kết thúc một thời kỳ dài khi mà tổ chức này hoạt động như một tiền đồn của Đại học Beograd.
Năm 1974, địa vị chính trị của Kosovo được nâng lên cao nữa khi được một hiến pháp mới của Nam Tư trao thêm nhiều quyền chính trị. Cùng với Vojvodina, Kosovo được tuyên bố là một tỉnh và đạt được nhiều trong số các quyền lực của một nước cộng hòa bình thường: một ghế trong chức chủ tịch liên bang và có quốc hội riêng, lực lượng cảnh sát và ngân hàng quốc gia. Quyền lực vẫn nằm trong tay Đảng Cộng sản, nhưng giờ đây được ủy thác cho những người cộng sản Albania.
Cái chết của Tito vào tháng 5 năm 1980 đã dẫn tới một thời kỳ dài bất ổn định chính trị, càng làm tồi tệ thêm bởi khủng hoảng kinh tế gia tăng và sự nổi loạn của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Sự bùng nổ lớn đầu tiên xảy ra ở thành phố chính của Kosovo, Pristina, vào tháng 3 năm 1981 khi các sinh viên Albania tụ tập thành hàng dài trong căng tin của trường. Tranh cãi tưởng là bình thường này nhanh chóng lan rộng khắp Kosovo và mang những đặc điểm của một cuộc khởi nghĩa quốc gia, với hàng loạt các cuộc biểu tình của dân chúng ở nhiều thị trấn ở Kosovo. Người biểu tình yêu cầu rằng Kosovo phải được trở thành là một nước cộng hòa thứ bảy của Nam Tư. Tuy nhiên, điều này đối với Serbia và Cộng hòa Macedonia là không thể chấp nhận được về mặt chính trị. Một vài người Serbia (và có thể một vài người theo chủ nghĩa dân tộc Albania nữa) nhìn nhận những yêu sách này như là mà mở đầu cho một "Đại Albania", có thể bao gồm cả những phần của Montenegro, Cộng hòa Macedonia và chính cả Kosovo. Chủ tịch nước Nam Tư cộng sản đã đàn áp các cuộc bạo loạn bằng cách đưa cảnh sát và quân đội đến và tuyên bố tình trạng khẩn cấp, mặc dù không hủy bỏ được nền tự trị của tỉnh này như một vài người Serbia cộng sản yêu cầu. Báo chí Nam Tư cho rằng đã có 11 người chết (mặc dù những bên khác tuyên bố số người bị chết lên tới 1000) và 4200 người khác bị bắt.
Đảng Cộng sản Kosovo cũng phải chịu sự thanh trừng, một vài nhân vật chủ chốt (bao gồm chủ tịch đảng) bị trục xuất. Kosovo phải chịu đựng sự hiện diện của cảnh sát mật nặng nề trong suốt thập niên 1980, đàn áp thẳng tay không thương tiếc những biểu thị của chủ nghĩa dân tộc trái phép, cả người Albania và người Serbia. Theo như một báo cáo được trích bởi Mark Thompson, khoảng 580.000 cư dân của Kosovo bị bắt, chất vấn, giam giữ hoặc là bị khiển trách. Hàng nghìn người trong số này đã mất việc hoặc là bị đuổi khỏi các cơ sở giáo dục.
Trong suốt thời gian này, căng thẳng giữa người Albania và cộng đồng người Serbia tiếp tục leo thang. Năm 1969, Giáo hội Chính thống của Serbia đã ra lệnh cho các tăng lữ thu thập dữ liệu về vấn đề đang tiếp diễn của người Serbia ở Kosovo, nhằm gây áp lực cho chính phủ ở Beograd phải tăng cường bảo vệ sự trung thành của người Serbia. Tháng 2 năm 1982, một nhóm thầy tu từ Serbia thỉnh cầu Giám mục của mình đưa ra câu hỏi "Tại sao Giáo hội Serbia lại im lặng" và tại sao không có chiến dịch chống lại sự "hủy diệt, đốt phá, xúc phạm thần thánh của Kosovo". Những lo ngại như vậy đã thu hút sự chú ý của Beograd. Chuyện này được xuất hiện hết lần này đến lần khác trên báo chí Beograd, tuyên bố rằng người Serbia và Montenegro đang bị ngược đãi. Có một sự nhận thức xác thực giữa những người theo chủ nghĩa dân tộc Serbia là người Serbia đang bị đuổi ra khỏi Kosovo. Một thực tế quan trọng góp phần vào mối lo sợ và sự bất ổn định này là sự vận chuyển mai túy quy mô lớn của mafia ở Kosovo và Albania.
Một nhân tố khác nữa là tình trạng ngày càng tồi tệ của nền kinh tế Kosovo, khiến người Serbia không chọn nơi này để tìm việc. Người Albania cũng như người Serbia có xu hướng thích người cùng sắc tộc hơn khi thuê nhân viên mới, nhưng lượng công việc trong hoàn cảnh nào cũng quá ít so với dân số.
Năm 1989, Milošević trở thành Tổng thống Serbia và hành động rất nhanh chóng để trấn áp Kosovo, tước quyền tự chủ của nó và đến năm 1990 thì gửi quân đội đến để giải tán chính phủ Kosovo. Trong khi đó, chủ nghĩa dân tộc Serbia đã dẫn đến sự tan rã của Liên bang Nam Tư vào năm 1991, và đến năm 1992 khủng hoảng Balkan trở thành một cuộc nội chiến. Một nhà nước Nam Tư mới được thành lập, chỉ bao gồm Serbia và một quốc gia nhỏ là Montenegro, và Kosovo bắt đầu 4 năm kháng chiến bất bạo động chống lại chính quyền Serbia.
Tổ chức Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA) nổi lên từ năm 1996 và bắt đầu tấn công cảnh sát Serbia ở Kosovo. Với vũ khí thu được ở Albania, KLA tăng cường các cuộc tấn công trong năm 1997, kích động một cuộc tấn công lớn của quân đội Serbia nhằm vào khu vực Drenica do phiến quân kiểm soát từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1998. Hàng chục dân thường thiệt mạng, số người gia nhập KLA gia tăng đáng kể. Tháng 7, KLA phát động một cuộc tấn công ở Kosovo, giành quyền kiểm soát gần nửa tỉnh này trước khi phải tháo chạy sau cuộc phản công của Serbia cuối mùa hè năm đó. Binh lính Serbia đã buộc hàng ngàn người Albania phải rời bỏ quê hương và bị buộc tội tàn sát dân thường ở Kosovo[55].
Tháng 1/1999, vụ thảm sát người Albania ở Racak trở thành giọt nước tràn ly. Phương Tây, vốn có quá nhiều vấn đề ở Bosnia, đã vào cuộc. Hội nghị Rambouillet tại Paris, Pháp, được triệu tập mùa xuân năm đó với ý định áp đặt một giải pháp chính trị cho quân nổi dậy nhưng không thành.
Tháng 10 năm 1998, NATO đe dọa không kích Serbia, và Milošević đã đồng ý cho hàng ngàn người tị nạn trở lại quê hương. Tuy nhiên, cuộc chiến nhanh chóng tiếp diễn, và các cuộc đàm phán giữa người Albania ở Kosovo và người Serbia ở Rambouillet (Pháp) hồi tháng 2 năm 1999 đã kết thúc trong thất bại. Ngày 18 tháng 3, các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris tiếp tục thất bại sau khi phái đoàn Serbia từ chối ký một thỏa thuận cho phép Kosovo độc lập và cho phép triển khai quân đội NATO để thực thi thỏa thuận. Hai ngày sau đó, quân đội Serbia phát động một cuộc tấn công mới ở Kosovo. Đến ngày 24/03, NATO bắt đầu cuộc không kích.
Bên cạnh những căn cứ quân sự của Serbia, chiến dịch không kích của NATO còn nhắm đến các tòa nhà chính phủ Serbia và cơ sở hạ tầng của nước này trong một nỗ lực nhằm gây bất ổn cho chính quyền Milošević. Các vụ đánh bom và chiến dịch tấn công Serbia tiếp tục buộc hàng trăm ngàn người Albania ở Kosovo phải di tản sang các nước láng giềng là Albania, Macedonia, và Montenegro. Nhiều người tị nạn đã được đưa an toàn tới Mỹ và các quốc gia NATO khác. Ngày 10 tháng 6, cuộc không kích của NATO kết thúc khi Serbia đồng ý ký một thỏa thuận hòa bình, theo đó quân đội Serbia sẽ rút khỏi Kosovo và thay vào đó là lực lượng gìn giữ hòa bình của NATO.[55]
Vào ngày 07/05/1999, Không quân Hoa Kỳ đã ném bom nhầm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade khiến 03 người thiệt mạng[56].
Sau chiến tranh Kosovo, Liên bang Nam Tư (mới) tan rã với các quốc gia mới như Kosovo, Montenegro, Serbia. Tổng thống Slobodan Milošević bị đưa ra tòa án quốc tế để xét xử nhưng tòa chưa kịp tuyên án thì ông ta đã qua đời trong tù.[58]
Sau khi độc lập, Kosovo vẫn thuộc nhóm các nước nghèo nhất châu Âu, tỷ lệ thất nghiệp cao, khả năng hội nhập vào EU thấp. Người Serbia ở đây gặp nhiều khó khăn khi chịu sự kỳ thị về sắc tộc.[59] Giữa Serbia và Kosovo tồn tại những tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt khi Serbia không thừa nhận sự độc lập của Kosovo.[60] Trong EU, do vấn đề các xử ly khai nên Tây Ban Nha không công nhận sự độc lập của Kosovo, bên cạnh đó còn có Slovakia, România, Cộng hòa Síp, và Hy Lạp. Nga, Trung Quốc là hai ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc không thừa nhận Kosovo.[61]
|title=
(trợ giúp)
|ngày truy cập=
cần |url=
(trợ giúp)