Chuột núi Lào | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: Gần đây | |
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Rodentia |
Phân bộ (subordo) | Hystricomorpha |
Họ (familia) | Diatomyidae |
Chi (genus) | Laonastes P. D. Jenkins và ctv., 2005 |
Loài (species) | L. aenigmamus |
Danh pháp hai phần | |
Laonastes aenigmamus (Jenkins, Kilpatrick, Robinson, Timmins, 2005) | |
Chuột núi Lào hoặc kha-nyou (tên khoa học: Laonastes aenigmamus, tức là "chuột đá Lào") là loài gặm nhấm sống ở miền Khammuane của Lào. Loài này được miêu tả lần đầu tiên năm 2005 trong một bài báo của Paulina Jenkins và một số người khác, họ nghĩ rằng động vật này có tính chất khác biệt với các loài gặm nhấm đang sống đến độ cần phải đặt nó vào một họ mới, gọi là Laonastidae.[2]
Vào năm 2006, cách phân loại của loài chuột này bị Mary Dawson và một số người khác bác bỏ. Họ cho rằng nó thuộc về họ hóa thạch cổ, Diatomyidae, trước đây tưởng bị tuyệt chủng 11 triệu năm trước.[3] Do đó, loài này tiêu biểu cho đơn vị phân loại Lazarus. Con này giống với con chuột lớn có lông đen và đuôi dày rậm lông. Nó có sọ rất lạ với đặc điểm khác với các thú vật khác đang sống.
Tháng 9 năm 2011, Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã quốc tế (FFI) thông báo đã phát hiện chuột núi Lào ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình.[4][a] Thông báo khoa học ở Tập san Sinh học Việt Nam năm 2012 thì chuột núi Lào được phát hiện ở Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng [5].
Các mẫu vật đầu tiên được phát hiện năm 1996, khi thấy chúng bị làm thịt để bán như thực phẩm tại chợ ở Thakhek, Khammuane. Sau đó năm 1998 ba bộ xương của loài động vật này đã thu được từ người dân. Các nhà nghiên cứu Hiệp hội bảo tồn Động vật hoang dã quay trở lại Lào và đã phát hiện một số mẫu vật khác.
Các phát hiện mới đã cho thấy động vật này có thể không phải là hiếm như từng nghĩ. Ngày 13/06/2006 David Redfield, giáo sư danh dự của Đại học bang Florida, và nhà sinh học động vật hoang dã Uthai Treesucon người Thái Lan công bố họ đã bắt, chụp ảnh và ghi hình một mẫu sống của loài này tại bản Doy ở Lào.
These specimens are described here on the basis of their unique combination of external and craniodental features as members of a new family, genus and species, using comparative morphological and molecular dataKiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
và |ngày lưu trữ=
(trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)[liên kết hỏng]
The highly distinctive characteristics of Laonastes led to the determination that the origin of Laonastes could readily be traced to a known family of earlier Asian rodents, the Diatomyidaeline feed character trong
|trích dẫn=
tại ký tự số 26 (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập=
(trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)[liên kết hỏng]