Chu Văn An 朱文安 | |
---|---|
Văn Trinh Công | |
Tượng thờ Chu Văn An tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám | |
Tên húy | Chu An (朱安) |
Tên chữ | Linh Triệt (靈徹) |
Tên hiệu | Tiều Ẩn (樵隱) |
Bút danh | Tiều Ẩn |
Thụy hiệu | Văn Trinh |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Chu An (朱安) |
Ngày sinh | 6 tháng 10, 1292 |
Nơi sinh | Thăng Long, Đại Việt |
Mất | |
Thụy hiệu | Văn Trinh |
Ngày mất | 1370 (77–78 tuổi) |
An nghỉ | núi Phượng Hoàng, phường Văn An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Chu Văn Thiện |
Thân mẫu | Lê Thị Chuân |
Học vấn | Thái học sinh (Tiến sĩ) |
Chức quan | Tư nghiệp Quốc Tử Giám |
Tước hiệu | Văn Trinh Công |
Nghề nghiệp | Nhà giáo, thầy thuốc, |
Tôn giáo | Nho giáo |
Quốc gia | Đại Việt |
Quốc tịch | Việt Nam |
Thời kỳ | Nhà Trần |
Tác phẩm | Thất trảm sớ |
Chu Văn An (6 tháng 10 năm 1292, ông không rõ năm mất, có một số tài liệu ghi là năm 1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần, "danh nhân văn hóa thế giới"[1]. Sau khi mất, ông được vua Trần truy phong tước Văn Trinh công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An hay Chu Văn Trinh. Ông được Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá là ông tổ của các nhà nho nước Việt.
Ông được gọi là người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc của Việt Nam, đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học, với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội. Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ người Việt Nam mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại, gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.
Chu Văn An quê ở làng Văn Thôn, Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Ông là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1300–1357) mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ Tông, thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người hái củi ở ẩn) dạy học, viết sách cho tới khi mất.[2]
Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến Việt Nam. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
Hiện nay còn lăng mộ và đền thờ của ông nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc phường Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hóa và danh thắng, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998.
Tên ông còn được đặt tên cho các công trình công cộng, như đường phố, trường học.
Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc'
Dịch: